Ké đầu ngựa còn gọi là thương nhĩ (tên Trung Quốc) phắt ma (Thổ).
Tên khoa học Xanthium strumarium L.
Thuộc họ Cúc Asteraceae. Ta dùng quả ké đầu ngựa, hay toàn bộ phận trên mặt đất của cây ké đầu ngựa, phơi hay sấy khô.
Ở Trung Quốc, gọi quả ké là thương nhĩ tử (Fructus Xanthii).
Mô tả cây
Cây ké đầu ngựa là một cây nhỏ, cao độ 2m thân có khía rãnh. Lá mọc so le, phiến lá hơi 3 cạnh, mép có răng cưa có chỗ khía hơi sâu thành 3 - 5 thùy, có lông ngắn cứng. Cụm hoa hình đầu có thứ lưỡng tính ở trên, có thứ chỉ gồm có hai hoa cái nằm trong hai lá bắc dày và có gai. Quả giả hình thoi, có móc, có thể móc vào lông động vật. Trẻ con vẫn nghịch bỏ vào tóc nhau rất khó gỡ ra (cắt đôi thấy ở trong có hai quả thực)
Ké đầu ngựa
Phân bố thu hái và chế biến
Cây ké này mọc hoang khắp nơi trong nước ta (đất hoang, bờ ruộng, bờ đường). Hái cả cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô. Hoặc chỉ hái quả chín rồi phơi hay sấy khô.
Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ ké có vị ngọt, tính ôn, hơi có độc. Vào phế kinh, có tác dụng làm ra mồ hôi, tán phong, dùng trong các chứng phong hàn, đau nhức, phong thấp, tê dại, mờ mắt, chân tay co giật, uống lâu ích khí. Phàm không phải phong nhiệt chớ dùng. Trong sách cổ nói dùng ké phải kiêng thịt lợn. Nếu dùng thịt lợn cùng khi uống thuốc thì khắp mình sẽ nổi quầng đỏ.
Hiện nay ké là một vị thuốc thường dùng trong nhân dân Việt Nam, Trung Quốc, chữa mụn nhọt, lở loét, bướu cổ, ung thư phát bối (đàng sau lưng), mụn nhọt không đầu, đau răng, đau cổ họng, viêm mũi.
Nhân dân Liên Xô cũ dùng ké đầu ngựa để chữa bướu cổ, các bệnh mụn nhọt, nấm tóc, hắc lào, lỵ và đau răng.
Nhân dân ta và Trung Quốc thường chế thành cao thương nhĩ thường gọi là vạn ứng cao. Cách làm như sau: từ tháng 5 đến tháng 9, hái toàn cây về phơi khô cắt nhỏ nấu với nước lọc và cô thành cao mềm. Cao dễ lên men, đóng chai thường phụt bật nút lên. Khi uống hòa với nước âm ấm, mỗi ngày từ 6 - 8g cao. Uống luôn từ nửa tháng đến hai tháng.
Có thể chế thành thuốc viên thương nhĩ hoàn như sau: bỏ rễ, rửa sạch, cắt ngắn cho vào nồi nấu với nước sôi trong một giờ, lọc lấy nước, bã còn lại thêm nước, nấu sôi một giờ nữa, lọc và ép lấy hết nước. Hợp cả 2 nước lại, cô thành cao mềm. Khi nào lấy que thủy tinh nhúng vào vào cao nhỏ lên giấy, giọt cao không loang ra nữa là được. Sau đó thêm vừa đủ bột vào (chừng 1/3 lượng cao) trộn đều chế thành viên.
Trước khi ăn cơm thì uống. Ngày uống 3 lần mỗi lần uống 16 - 20g. Theo sách cổ, uống cao thương nhĩ phải kiêng thịt lợn, thịt ngựa sợ độc. Thực tế tại bệnh viện Giang Tây (Trung Quốc) bệnh nhân uống thuốc không kiêng thịt vẫn không xảy ra hiện tượng độc nào mà thuốc vẫn có tác dụng tốt.
Thuốc cao và thuốc viên nói trên chuyên chữa lở loét, mụn nhọt.
Đơn thuốc có ké dùng trong nhân dân:
Chữa đau răng: sắc nước quả ké, ngậm lâu lại nhổ. Ngậm nhiều lần.
Mũi chảy nước trong, đặc: quả ké sao vàng tán bột. Ngày uống 4 - 8g.
Chữa thủy thũng, bí tiểu tiện: Thương nhĩ tự thiên tồn tính, đình lịch. Hai vị bằng nhau tán nhỏ. Uống với nước mỗi lần 8g, ngày hai lần.
Chữa bướu cổ: ngày uống 4 - 5g quả hay cây ké dưới dạng thuốc sắc (đun sôi, giữ sôi 15 phút).
Trồng cây ké:
Trồng vào mùa xuân, làm đất bón phân cho tốt (tro, đất sống phốt phát đều được). Đào lỗ nhỏ cho vào 3 - 4 hạt mỗi hố cách nhau chừng 50 - 60cm. Phủ ít đất lên và tưới ấm, độ 10 ngày sau cây mọc. Khi cây cao độ 6 - 7cm có thể đánh trồng chỗ khác. Vào cuối hạ hay sang thu quả chín thì hái cả cây hay chỉ hái quả thôi, phơi hay sấy khô mà dùng hoặc nấu cao như trên đã giới thiệu.
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)
của GS. ĐỖ TẤT LỢI
0 nhận xét:
Đăng nhận xét