Trai có nhiều loài, phân bố ở biển và sông ngòi. Trong các loài, chỉ có traiđiệp và trai sông cung cấp thịt làm thức ăn ngon và làm thuốc tốt.
Trai điệp có vị ngọt, mặn, tính hàn, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, minh mục, giải độc chữa phiền nhiệt, háo khát, đới hạ, đau mắt đỏ.
Dùng trong: lấy thịt trai điệp 50g, thái nhỏ, nấu nhừ với lá bìm bịp non hoặc lấy lá dâu non 30g, thêm muối và gia vị cho đủ đậm. Ăn làm một lần trong ngày.
Dùng ngoài: thịt trai điệp phơi khô, đốt tồn tính, tán nhỏ, rồi bôi xoa.
Lớp chất nhầy (gọi là nhớt) bao bọc toàn thân trai điệp dùng trong chữa bỏng rất tốt. Người ta lấy nhớt bằng cách bắt trai, dùng khăn lau sạch đất cát dính ở quanh miệng trai, rồi dùng một dao nhọn lách vào giữa hai mép vỏ, banh rộng miệng trai ra. Lấy tăm bông sạch thấm nhớt mà bôi ngay vào vết thương (nhất là bỏng lửa độ nhẹ). Sở dĩ có tác dụng như vậy vì nhớt trai điệp có phản ứng kiềm, khi bôi lên vết bỏng sẽ gây cảm giác dịu mát, dễ chịu, hết đau nhức.
Trai sông, có vị ngọt, mặn, tính hàn, có tác dụng lợi thấp, thanh nhiệt, tiêu khát, hạ huyết áp, đổ mồ hôi trộm.
Khi dùng, rửa sạch trai, cho vào nồi nước sôi cho trai há miệng. Để nguội, gỡ lấy thịt, lấy 50g thái nhỏ, trộn với một nắm lá dâu non đã rửa sạch, thái nhỏ. Nấu cho nhừ thịt trai, thêm muối cho đủ đậm. Cho trẻ ăn làm hai lần trong ngày để chữa mồ hôi trộm, trẻ hay khóc về đêm. Dùng 3 - 5 ngày. Thịt trai 30 - 50g nấu với râu ngô 20g (loại non càng tốt) cho thật nhừ. Vớt râu ngô ra, thêm hành 10g, gừng 3g và bột gia vị. Ăn trong ngày chữa hay nhức đầu, tăng huyết áp, thủy thũng. Để chữa viêm gan, vàng da, lấy thịt trai 30 - 50g, nhân trần 30g, thái nhỏ sắc với 400ml nước, uống làm hai lần trong ngày.
Người ta còn dùng thịt trai sông dưới dạng thức ăn - vị thuốc khá phổ biến. Lấy thịt trai 50g ninh nhừ với thịt lợn nạc 20g, ăn vào bữa cơm chữa bệnh tiểu nhiều về đêm hoặc xào chín với dầu lạc, thêm ít rượu, gừng, muối, ăn trong ngày chữa kinh nguyệt quá nhiều. Thịt trai sông nấu nhừ với thịt hàu 50g và gạo tẻ 100g thành cháo ăn ngày hai lần chữa tăng huyết áp, phòng ngừa tai biến mạch máu não, nhức đầu, chóng mặt, suy gan.
DS. Huy Bích
0 nhận xét:
Đăng nhận xét