Đông y cho rằng, sói rừng có vị đắng, cay, tính hơi ấm, hơi có độc. Có tác dụng kháng khuẩn tiêu viêm, khu phong trừ thấp, hoạt huyết chỉ thống.
Sói rừng còn gọi là “sói nhẵn”, “cửu tiết trà”, “thảo san hô”, “quan âm trà”, “tiếp cốt mộc”, “cửu tiết phong”, “cửu tiết lan”, “sơn hồ tiêu”, “cốt phong tiêu”, “mãn sơn hương”, “kê cốt hương”, “tiếp cốt trà”…, tên khoa học là Sarcandra glabra (Thunb) Nakai, thuộc họ Hoa sói (Chloranthaceae).
Cây mọc hoang ở nhiều nơi, từ các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hoà Bình, Hà Tây (cũ) đến Kon Tum, Lâm Đồng… Hay gặp nhất ở các vùng núi đất, bìa rừng và ven đồi ẩm ướt. Một số nơi cũng trồng sói rừng để lấy hoa ướp trà.
Sói rừng là loại cây giàu dược tính nên được khai thác để sử dụng làm thuốc chữa trị nhiều bệnh. Để làm thuốc, có thể thu hái toàn cây vào mùa hạ, dùng tươi hay phơi khô trong râm (âm can). Rễ thu hái quanh năm, rửa sạch, cắt đoạn phơi trong râm, cũng được dùng tươi làm thuốc.
Là loài cây nhỏ, cao 1 - 2m; đốt phồng to, nhánh tròn, không lông, mọc đối. Lá mọc đối, có phiến dài xoan bầu dục, dài 7- 18cm, rộng 2 - 7cm, đầu nhọn, mép có răng nhọn, gân phụ 5 cặp; cuống ngắn 5-8mm.
Bông kép, ít nhánh, nhánh ngắn; hoa nhỏ, màu trắng, không cuống; nhị 1. Quả nhỏ, đỏ gạch, mọng, gần tròn 6x4mm. Mùa hoa vào tháng 6 - 7, mùa quả tháng 8 - 9.
Đông y cho rằng, sói rừng có vị đắng, cay, tính hơi ấm, hơi có độc. Có tác dụng kháng khuẩn tiêu viêm, khu phong trừ thấp, hoạt huyết chỉ thống. Chủ trị viêm phổi, viêm phế quản, viêm ruột thừa cấp tính, viêm dạ dày ruột cấp tính, lỵ nhiễm khuẩn, phong thấp đau nhức, đòn ngã tổn thương, gãy xương…
Trong dân gian, thường dùng rễ cây này ngâm rượu uống để chữa tức ngực, đau nhức xương khớp; còn dùng toàn cây sắc uống trị cảm mạo, kinh nguyệt không đều và viêm phổi. Lá sắc uống trị ho, giã đắp chữa rắn cắn.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, sói rừng có tác dụng ức chế đối với tụ cầu khuẩn vàng staphylococcus aureus, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn bacillus coli, trực khuẩn mủ xanh bacillus pyocyaneus; trực khuẩn thương hàn và phó thương hàn salmonella typhosa…
Lá có tác dụng kháng khuẩn mạnh nhất; rễ và cành tươi có tác dụng mạnh hơn rễ và cành đã khô. Đối với các loại tụ cầu khuẩn và trực khuẩn đều có tác dụng ức chế ở mức độ nhất định. Thử nghiệm đối với các bệnh nhân viêm phổi, viêm phế quản, viêm dạ dày ruột cấp tính, lỵ trực trùng… hiệu suất trung bình tới 75 - 80%.
Một số bệnh nhân, chỉ sau 1 - 2 ngày dùng thuốc, thân nhiệt khôi phục bình thường.
Liều dùng hàng ngày: Dưới dạng sắc nước uống từ 10 - 15g khô (30 - 40g tươi). Hoặc ngâm rượu. Dùng ngoài giã đắp hoặc nấu nước rửa.
Kiêng kỵ dùng với người âm hư hỏa vượng và phụ nữ có thai.
Dưới đây là cách trị bệnh từ cây sói rừng:
- Phòng cảm mạo: Dùng sói rừng 10 - 15g, mùa đông thêm tía tô 6g, mùa hè thêm kim ngân hoa 6g, sắc nước uống thay trà trong ngày.
- Chữa các chứng viêm nhiễm (có tác dụng chống viêm rất tốt): Mỗi ngày dùng 30 - 40g cành lá sói rừng tươi, sắc lấy nước, chia 3 lần uống, liên tục 2 - 3 ngày hoặc có thể kéo dài ngày hơn.
- Chữa đau lưng: Dùng cành lá sói rừng 10 - 15g, sắc với nửa rượu nửa nước, chia ra uống trong ngày.
- Chữa đòn ngã tổn thương, gãy xương, viêm khớp xương do phong thấp: Dùng cây tươi, giã nát, sao rượu, đắp; hoặc dùng 15 - 30g rễ sắc với nước hoặc ngâm rượu uống.
- Chữa ngoại thương xuất huyết: Dùng cây tươi, giã nát, đắp; hoặc dùng 15-30g rễ, ngâm rượu uống.
- Chữa vết thương loét, không liền miệng: Dùng cành lá, lượng thích hợp, nấu nước rửa, ngày 1- 2 lần.
- Chữa trị bỏng: Dùng lá sói rừng, phơi khô, tán mịn, trộn thêm 2 phần dầu hạt sở hoặc dầu vừng; hàng ngày bôi vào chỗ bị bỏng.
Theo BS Hoàng Tuấn Linh - Nông nghiệp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét