Thứ Tư, 21 tháng 1, 2015

Lá đinh lăng tăng sức đề kháng

Cây đinh lăng, còn được gọi với tên quen thuộc là cây gỏi cá vì hay được dùng như một loại rau ghém ăn chung với cá.

Tác dụng
Khi dùng rễ, có thể để nguyên hoặc tẩm rượu gừng 5% rồi sao qua, tẩm thêm 5% mật ong, sao vàng thơm. Đinh lăng có vị đắng, ngọt, tính mát, mùi thơm, không độc, có tác dụng bổ ngũ tạng làm tăng cường sức dẻo dai và nâng cao sức đề kháng của cơ thể, chống được hiện tượng mệt mỏi, làm cho cơ thể ăn ngon, ngủ yên, giúp mau lên cân.
Trong rễ đinh lăng có chứa nhiều Saponin có tác dụng như nhân sâm, nhiều sinh tố B1. Ngoài ra, rễ cây còn chứa khoảng 13 loại axit amin cần thiết cho cơ thể nhờ đó mà đinh lăng còn giúp cho tăng trí nhớ nên rất tốt cho người lao động bằng trí óc hoặc các sĩ tử trong mùa thi. 
Ngoài công dụng trên, rễ đinh lăng thường được dùng để trị ho ra máu, chữa tắc tia sữa, làm mát huyết, lợi tiểu, chữa mẩn ngứa. Lá đinh lăng cũng được dùng để nấu canh với thịt, cá để bồi bổ cho sản phụ, người già hoặc người ốm mới dậy. Tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, ban sởi, chữa ho ra máu, kiết lỵ. 

Bài thuốc 
Chữa đau nhức lưng, gối, hoặc tê nhức chân tay, phong thấp: 20 - 30g thân cành sắc lấy nước uống. Có thể phối hợp chung với lá lốt, cúc tần, bưởi bung, rễ mắc cở, mỗi loại 10g, sắc trong 600ml, cô còn khoảng 300ml uống 2 - 3 lần trong ngày, uống vài lần là bớt đau. 
Hoặc bài thuốc gồm rễ đinh lăng 12g; cối xay, hà thủ ô, huyết rồng, cỏ xước, thiên niên kiện tất cả 8g, vỏ quít, quế chi 4g, cho vào 600ml nước sắc còn 250ml, khi sắp nhắc khỏi bếp thì hãy cho vị quế chi vào. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.
Ho suyễn lâu năm: Lấy rễ đinh lăng, bác bộ, đậu săn, tang bạch bì, nghệ vàng, tần dày lá tất cả đều 8g, xương bồ 6g, gừng khô 4g, đổ 600ml sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng. 

Theo Lương y Nguyễn Đức Nghĩa - Kiến thức

Trị bỏng ngay lập tức bằng hoa mười giờ

Nhà nào, ở đâu cũng có thể trồng hoa mười giờ, vừa làm cảnh, vừa làm thuốc chữa bỏng, như một vị thuốc tiên vậy.

Ảnh chỉ mang tính minh họa

Dân ta ai mà chẳng biết cây hoa mười giờ. Có loại cây mười giờ hoa đỏ, có loại hoa vàng và cũng có loại hoa hồng rực, bông to. Mùa hè chỉ cần ngắt 1 đoạn dài 15cm giâm vào đất ẩm là cây sống và phát triển ngay. Nhà nào, ở đâu cũng có thể trồng hoa mười giờ, vừa làm cảnh, vừa làm thuốc chữa bỏng, như một vị thuốc tiên vậy.
Tôi đã tự chữa bỏng cho mình, cho gia đình và mách cho nhiều người chữa bỏng bằng cây hoa mười giờ, dù đó là bỏng thép, bỏng lửa, bỏng nước sôi, cám lợn, canh rau, bã rượu… đều khỏi ngay tức thì.
Cách làm như sau: Khi bị bỏng phải lập tức vặt ngay một nắm (nhiều hay ít tùy theo vết bỏng to hay nhỏ) cả cây, lá, hoa, đem giã nhỏ (hoặc vò nát cho chảy nước) và đắp ngay. Vừa đắp, vừa giở liên tục cho mát. Nắm lá ấy đã ấm lên, không có tác dụng làm mát nữa thì thay ngay nắm khác. Cứ thế tiến hành đến khi hết nóng rát là khỏi hẳn.
Điều đặc biệt là chỗ da bị bỏng lại hồi sinh bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Nếu bỏng sâu như bỏng thép thì chỗ da bỏng sẽ khô đi, nhưng không phồng, không rát. Dần dần lớp da mới phát triển, lớp bỏng sẽ dần tự bong ra, không gây đau đớn.
Xin bà con truyền lại cho nhau mấy câu sau đây:
"Hỡi ai đi đông về tây
Thuốc tiên chữa bỏng là cây mười giờ
Nước sôi, lửa bỏng bất ngờ
Lấy cây mười giờ giã nhỏ đắp ngay
Vừa đắp vừa trở liền tay
Vết bỏng hết rát khỏi ngay tức thì"

Theo Nông nghiệp Việt Nam

Cây hoa hướng dương chữa tiền liệt tuyến phì đại

Hoa hướng dương có tác dụng trừ phong, sáng mắt. Dùng chữa đầu choáng váng, mặt sưng phù, còn dùng để thúc sinh cho phụ nữ.


Cây hoa hướng dương còn gọi quỳ tử, thiên quỳ tử, quỳ hoa tử với tên khoa học: Helianthus annuus L. thuộc họ Cúc Asteraceae. Cây hoa hướng dương là loài cây thảo cao 1- 3m sống 1 năm, thân to thẳng có lông cứng, thường có đốm.
Lá to, thường mọc so le, có cuống dài, phiến lá hình trứng đầu nhọn, phía dưới hình tim, mép có răng cưa, hai mặt đều có lông trắng. Cụm hoa đầu lớn, đường kính 7-20cm, bao chung hình trứng; hoa hình lưỡi, ngoài màu vàng; các hoa lưỡng tính ở giữa màu tím hồng.
Cây hoa hướng dương được trồng làm cảnh, làm thuốc, lấy dầu (trong hạt). Cây ra hoa vào mùa đông, mùa xuân, có quả vào tháng 1-2.
Theo Ðông y, hoa hướng dương có tác dụng trừ phong, sáng mắt. Dùng chữa đầu choáng váng, mặt sưng phù, còn dùng để thúc sinh cho phụ nữ. Hạt hướng dương có vị ngọt, tính bình, không độc. Tác dụng tư âm bổ hư, ninh tâm an thần, chỉ lỵ, thấu chẩn.
Dùng chữa tinh thần uất ức, thần kinh suy nhược, chán ăn, đau đầu do suy nhược, đi lỵ ra máu, sởi không mọc được. Khay hạt hướng dương (còn gọi là quỳ phòng, hướng nhật quỳ hoa thác, hướng nhật quỳ hoa bàn) có tác dụng chữa đầu đau, mắt hoa, răng đau, đau dạ dày và bụng, phụ nữ thống kinh, sưng đau lở loét.
Lá có tác dụng tăng cường tiêu hóa và chữa cao huyết áp. Lõi thân cành có tác dụng chữa tiểu tiện xuất huyết, tiểu dưỡng chấp, sỏi đường tiết niệu, tiểu tiện khó. Rễ cây hướng dương có tác dụng chữa ngực, sườn và vùng thượng vị đau nhức, thông đại tiểu tiện, chữa bị té ngã chấn thương, mụn nhọt lở loét chảy nước vàng.
Sau đây là một số tác dụng của cây hướng dương:
-Tuyến tiền liệt phì đại (dạng nhiệt tích ở hạ tiêu): Dùng khay hạt hướng dương 1 cái, mật ong lượng thích hợp. Khay hạt thái nhỏ, sắc hai nước, trộn nước đầu và nước hai, thêm mật ong vào cho đủ ngọt. Uống thay trà trong ngày.
- Chữa viêm tuyến vú: Dùng khay hạt hướng dương, bỏ hết hạt, thái nhỏ, sao vàng, tán thành bột mịn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 9-15g, hòa với rượu hoặc nước sôi.
- Chữa thượng vị đau tức do ăn không tiêu: Dùng rễ cây hoa hướng dương, hạt mùi, tiểu hồi hương; mỗi vị 6-10g, sắc nước uống.
- Chữa cao huyết áp: Dùng lá hướng dương khô 30g (hoặc 60g lá tươi), thổ ngưu tất 30g, sắc nước uống thay trà trong ngày.
- Chữa mắt mờ (nhãn mông): Dùng đế hạt hướng dương luộc với trứng gà, ăn trứng gà và uống nước thuốc.
- Chữa ho gà: Dùng lõi thân và cành cây hướng dương 15-30g, giã nát, hãm nước sôi, thêm đường trắng và uống trong ngày.
- Chữa đau dạ dày, đau bụng: Dùng khay hạt hướng dương 1 cái, dạ dày lợn 1 cái, nấu canh ăn.
- Chữa tai ù: Dùng vỏ hạt hướng dương 15g, sắc nước uống thay trà trong ngày.
- Chữa đại tiện không thông: Dùng rễ cây hoa hướng dương, giã nát, vắt lấy nước cốt, hòa thêm chút mật ong uống; Mỗi lần uống 15-30g, ngày uống 2-3 lần.
- Chữa tiểu nhỏ giọt, dương vật đau buốt: Dùng rễ cây hoa hướng dương tươi 30g sắc với nước uống. Chú ý: chỉ đun sôi một vài phút, không nấu quá lâu sẽ mất tác dụng. Hoặc dùng lõi thân và cành cây hướng dương 15g, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, dùng liên tục trong nhiều ngày.
- Chữa tinh hoàn sưng đau: Dùng rễ cây hoa hướng dương 30g, sắc với đường đỏ uống.
- Chữa kiết lỵ đại tiện xuất huyết: Dùng hạt hướng dương (đã bóc vỏ) 30g, hãm nước sôi trong 1 tiếng, pha thêm chút đường phèn uống trong ngày.
- Chữa phụ nữ đau tức bụng dưới trước và trong lúc hành kinh: Dùng khay hạt 30-60g, sắc lấy nước, hòa thêm đường đỏ uống trong ngày.
- Chữa tiểu dưỡng chấp: Dùng lõi thân và cành cây hướng dương một đoạn khoảng 60cm, rễ rau cần cạn 60g, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, dùng liên tục trong nhiều ngày.
- Chữa ung nhọt sưng tấy, lở loét: Dùng khay hạt thiêu tồn tính, nghiền thành bột mịn, hòa với dầu vừng bôi vào chỗ bị bệnh.
- Chữa sỏi thận, sỏi đường tiết niệu: Dùng lõi thân cành cây hướng dương (một đoạn khoảng 1 mét), cắt ngắn, sắc nước uống mỗi ngày 1 thang, dùng liên tục trong một tuần.

Theo DS Mỹ Nữ - Nông Nghiệp

Hoa đào: Vị thuốc quý từ thiên nhiên

Mùa xuân thêm rực rỡ bởi sắc hồng của hoa đào. Loài hoa tuyệt vời này còn là vị thuốc quý cho sức khỏe và nhan sắc của chúng ta đấy nhé!

Phòng bệnh cảm cúm
 
Theo một nghiên cứu công bố trên tờ The American Physiological Society, chất quercetin có trong hoa đào giúp cơ thể ít bị nhiễm các bệnh cảm cúm hơn. Bởi vì hợp chất quercetin có khả năng làm tăng cường sức đề kháng, chống lại các vi khuẩn, siêu vi khuẩn gây bệnh. 

Một nghiên cứu gần đây trên người cũng cho thấy, những người được tiêm hợp chất quercetin cũng ít bị nhiễm cúm hơn so với những người không tiêm quercetin.

 Làn da đẹp mịn màng
 

Sở dĩ hoa đào được ứng dụng vào việc sản xuất các sản phẩm làm đẹp là vì trong hoa đào có chứa rifolin, naringenin là một chất giúp ngăn ngừa khả năng oxy, nhuận da, giúp da mặt hồng hào, trắng đẹp. 
 
Danh y Tuệ Tĩnh trong Nam Dược Thần Hiệu cũng đã ghi lại phương thuốc dùng hoa đào để làm đẹp da mặt cho phụ nữ. Theo đó, ngày mùng 3 tháng 3 Âm lịch, lấy hoa đào phơi khô, tán bột. Ngày mùng 7 tháng 7 chích lấy máu ở mào con gà, đem trộn với bột hoa đào rồi bôi lên da mặt, sau 2-3 ngày màng thuốc bong ra thì da mặt trở nên tươi sáng như hoa. Tuy nhiên, bạn không nên tự ý làm theo các bài thuốc này mà nên có sự tư vấn và hướng dẫn của bác sĩ Đông y.
 
Tăng cường trí nhớ
 
Trong hoa đào có chứa thành phần quercetin là chất chống oxy hóa mạnh. Nếu mỗi ngày đều uống khoảng 200ml nước được hãm từ hoa đào, sẽ giúp tăng cường trí nhớ, giảm thiểu bệnh thoái hóa thần kinh như alzheimer, parkinson...
 
Ngoài ra, chất quercetin còn có thể ức chế các khối u phát triển, tốt cho hệ tim mạch, phòng ngừa đột quỵ, tai biến mạch máu não cho người trung niên và người cao tuổi khá tốt.
 
Ngăn ngừa oxy hóa
 
Trong hoa đào có chứa thành phần glucozid, trifolin là những chất giúp ngăn ngừa quá trình oxy hóa, giúp tăng cường khả năng co bóp của tim, tăng khả năng lưu thông máu và có tác dụng diệt vi khuẩn, siêu vi khuẩn giúp chống lại các tế bào ung thư mới hình thành và phát triển. 

Ngoài ra, chất glucozid còn chống lại các tế bào gốc tự do là nguyên nhân gây nên các bệnh tim mạch, rối loạn lipid trong máu, tăng đường huyết, viêm đường ruột kết, rối loạn tiểu đường…
 
Không phải ai cũng sử dụng được vị thuốc từ hoa đào
 
Trong hoa đào có chứa các chất kaemferol, quercetin, trifolin, naringenin, superoxide… không tốt cho phụ nữ mang thai. Những chất này có thể gây hưng phấn tử cung dễ dẫn tới sảy thai, sinh non và nhiều biến chứng khác. Những người huyết áp thấp, bụng dạ yếu cũng không nên dùng.
 
Ngoài ra, bệnh nhân gan, tim mạch hay trẻ nhỏ cũng cần lưu ý khi dùng các bài thuốc từ hoa đào. Không nên sử dụng quá nhiều, bởi hoa đào có thể gây hôn mê, ngộ độc khi quá liều.


Theo Minh Hà - Web Phụ nữ

Thứ Năm, 8 tháng 1, 2015

Hoa mai trắng chữa đau khớp

Hoa mai trắng vị ngọt hơi đắng, tính ấm, không độc, có công dụng giải thử sinh tân, khai vị tán uất, hóa đàm, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho.

Cây hoa mai trắng (bạch mai hoa) còn gọi cây mơ, lạp mai, bạch mai, lạp mộc, hương mai, hoàng lạp, tuyết lý hoa... có tên khoa học là Prunus armeniaca L. Cây hoa mai trắng cao khoảng 3 - 5m, ra hoa vào mùa xuân, hoa có cuống ngắn, màu trắng và có mùi thơm; đài hình bánh xe, 5 răng nhỏ, tràng 5 cánh mỏng, nhị nhiều xếp thành 2 vòng, bầu thượng, một ô.
Theo y học hiện đại, hoa mai trắng chứa nhiều tinh dầu như: borneol, linalool, benzyl alcohol, cineole, farnesol, terpineol, indol... và một số chất khác như meratin, calycanthine, caroten...Hoa mai trắng có tác dụng thúc đẩy bài tiết dịch mật, ức chế một số loại vi khuẩn như coli, trực khuẩn lỵ, trực khuẩn thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn lao...
Theo Đông y, hoa mai trắng vị ngọt hơi đắng, tính ấm, không độc, có công dụng giải thử sinh tân, khai vị tán uất, hóa đàm, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt cao phiền khát, tức ngực, ho, hầu họng sưng đau, bỏng, lao hạch, chán ăn, chóng mặt, viêm đường hô hấp, giúp long đờm.
Thường người ta phơi khô hoa mai, hãm với nước nóng, uống thay trà để giữ ấm đường hô hấp trong mùa đông, giảm ho, trừ ho do phế nhiệt, ho dai dẳng lâu ngày. Sau đây là một số tác dụng của hoa mai trắng:
- Chữa ho dai dẳng: Hoa mai trắng 9g hãm uống thay trà trong ngày. Hoa mai trắng 10g, khoản đông hoa 10g, gạo tẻ 60g, tất cả đem ninh thành cháo, chế thêm một chút mật ong, chia ăn vài lần trong ngày.
- Chữa chướng bụng, đầy hơi: Hoa mai trắng 10g, mộc hương 10g, hương phụ 15g, sắc uống.
- Chữa tăng huyết áp, cơn đau thắt ngực: Hoa mai trắng 3g, thảo quyết minh 10g hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì uống.
- Chữa đau bụng do lạnh: Hoa mai trắng và chu sa liên lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột, uống mỗi lần 3 - 6g với rượu.
- Chữa viêm họng mạn tính: Hoa mai trắng 6g, hoa dành dành 5g, trà 20g. Ba thứ trộn lẫn chia làm 2 lần hãm với nước sôi uống thay trà, mỗi ngày 1 thang.
- Chữa nấc: Hoa mai trắng 5g, tai hồng 5 cái, gừng tươi 3 lát, gạo tẻ 100g. Đem gừng tươi và thị đế sắc kỹ lấy nước, bỏ bã rồi cho gạo vào nấu thành cháo, khi chín thì cho hoa mai trắng vào, đun sôi vài dạo là được, chia ăn vài lần trong ngày.
- Chữa chán ăn do thử nhiệt: Hoa mai trắng 10g, lá sen 50g, hãm với nước sôi uống nhiều lần trong ngày.
- Chữa đau khớp do phong thấp: Hoa mai trắng 9g, thạch nam đằng 9g, thố nhĩ phong 9g, đam ngâm với 200ml rượu, mỗi lần uống 30 - 50ml.
- Chữa viêm da lở loét: Hoa mai trắng 6g đem ngâm với dầu lạc hoặc dầu vừng, sau 2 tuần thì dùng được, bôi vào tổn thương mỗi ngày 2 lần.
- Chữa viêm loét môi và niêm mạc miệng: Hoa mai trắng tươi lượng vừa đủ đem giã nát với đường trắng rồi vắt lấy nước bôi vào tổn thương.
- Chữa bỏng nhẹ: Hoa mai trắng lượng vừa đủ ngâm với dầu trà rồi bôi vào vùng bị bỏng.
Chữa nôn, mửa: Hoa mai trắng 5g, nước cốt gừng tươi 5ml. Đem hoa mai hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút là dùng được, chắt ra hòa thêm nước gừng tươi rồi uống.
- Chữa viêm họng, viêm amydal cấp tính: Hoa mai trắng 9g hãm với nước sôi trong bình kín, uống thay trà trong ngày; Hoa mai trắng 6g, huyền sâm 9g, bản lam căn 9g, sắc uống; Hoa mai trắng 15g, kim ngân hoa 15g, thạch cao 15g, huyền sâm 9g, sắc uống.
- Chữa mất nước nhiều do thử nhiệt gây phiền khát, tức ngực: Hoa mai trắng 10g, lá sâm 10g, cam thảo 10g, mạch môn 15g, hoắc hương 6g, sắc uống.
- Chữa tức ngực, khó thở: Hoa mai trắng 10g, qua lâu 15g, đan sâm 10g, sắc uống trong ngày.

Theo DS Mỹ Nữ - Nông Nghiệp Việt Nam

Cây trâm bầu - vị thuốc trị giun

Nước sắc lá trâm bầu có tác dụng tăng tiết mật, giúp sự tiêu hóa thức ăn, dân gian gọi là thuốc bổ đắng, giúp ăn ngon miệng và kích thích sự ăn ngon, gia tăng cảm giác thèm ăn.

Trâm bầu là dạng cây bụi hoặc gỗ nhỏ, cao từ 2-10 m, có khi tới 12 m. Thân trâm bầu có nhiều cành ngắn, khi rụng lá trông như gai. Cành non có 4 cạnh, lá mọc đối, hình trứng dài, chóp tù hay nhọn. Hai mặt lá đều có lông, mặt dưới nhiều hơn. Chiều dài của lá là 3-7,5 cm, chiều rộng 1,5-4 cm.
Cụm hoa gồm một hoa mọc ở kẽ lá và nhiều hoa nhỏ ở đầu cành, màu vàng nhạt. Quả dài  từ 18-20 mm, rộng 7-8 mm, có 4 cành mỏng chứa 1 hạt hình thoi, rộng 4 mm, có rìa. Các bộ phận dùng làm thuốc là hạt, rễ, lá và vỏ.
Trái trâm bầu thường được thu hái vào mùa thu đông (mùa nước nổi ở miền Nam), phơi khô, bỏ vỏ lấy hạt. Hạt trâm bầu có chứa nhiều tinh dầu (12%), tanin, axít axalic, canxi và các axít béo palmitic, linoleic. Vỏ lá chứa nhiều tanin, flavonoit, dầu béo, axít béo, oxalat calcium, axít oxalic tự do... Chất nhầy ở vỏ và cành non trâm bầu có tác dụng tẩy giun. Ngoài ra, nó còn có thể chữa đau bụng và tiêu chảy (hay dùng phối hợp với lá mơ tam thể).
Người dân ở một số nơi còn hái lá trâm bầu phơi khô, phối hợp với lá nhân trần để làm trà nhuận gan. Người ta còn trồng trâm bầu để nuôi kiến cánh đỏ. Ngoài ra, nước sắc lá trâm bầu có tác dụng tăng tiết mật, giúp sự tiêu hóa thức ăn dễ dàng, dân gian gọi là thuốc bổ đắng, giúp ăn ngon miệng và kích thích sự ăn ngon, gia tăng cảm giác thèm ăn.
Tác dụng lợi tiểu: Uống nước sắc lá trâm bầu, lượng nước tiểu bài tiết tăng lên rõ rệt nhưng chậm hơn so với Furosemid nhưng tác dụng này được kéo dài trong những giờ sau. Điều này có thể giúp cơ thể giải độc tốt mà không gây tai biến khi sử dụng.
Cây trâm bầu - vị thuốc trị giun
Về độc tính cấp và trường diễn, không tìm thấy LD50 của cao lá trâm bầu, tuy đã cho chuột uống với liều rất cao, tương ứng với 174 g lá khô, nghĩa là 8,7 kg lá trâm bầu khô cho một người lớn cân nặng 50 kg uống một lần, cho thấy độ an toàn của trâm bầu rất cao, hoàn toàn phù hợp với các tài liệu dân gian, nghĩa là không có độc tính. Ngay cả việc sử dụng lâu dài chế phẩm trâm bầu cũng không thấy có những thay đổi về sinh lý tế bào, các chỉ số về trọng lượng, huyết học, sinh hóa bình thường. Giải phẫu tế bào gan, thận cũng không thấy hiện tượng thoái hóa, hoại tử.
Dưới đây là vài cách trị bệnh từ cây trâm bầu:
- Điều trị giun đũa, kim: Mỗi ngày ăn 10 - 15 (khoảng 14 - 20 g) hạt trâm bầu bỏ vỏ (trẻ em dùng 5 - 10 hạt, khoảng 7 - 14 g), tùy theo độ tuổi. Có thể nướng qua hạt cho thơm, kẹp vào quả chuối chín để dễ ăn. Điều trị trong 3 ngày liền.  Lá và vỏ cây cũng có tác dụng như hạt.
- Nước sắc từ hạt trâm bầu có tác dụng trên giun đất và sán lợn. Lá và vỏ cây cũng có tác dụng như hạt. Ngoài ra, rễ trâm bầu còn chữa thương và lá làm thuốc giảm đau, cầm tiêu chảy.
Ngày nay, ở ven các con kênh vùng đồng bằng sông Cửu Long, cây trâm bầu dần dần biến mất do người dân chưa biết hết các công dụng trị bệnh cũng như ngăn ngừa bệnh của chúng. Hy vọng rằng qua nhiều kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học như nêu trên, những kiến thức bổ ích về cây trâm bầu cho sức khỏe mọi người sẽ được phổ biến rộng rãi.

Theo Người lao động

Bài thuốc chữa bệnh từ cây lục lạc ba lá

Trong dân gian, người ta cho rằng hạt lục lạc ba lá tròn có tác dụng chữa tiểu tiện nhiều lần, đái són, can thận kém, mắt mờ, di tinh, viêm tuyến vú, trẻ con cam tích.

Cây lục lạc ba lá còn có tên gọi là cây sục sạc, rủng rảng, muồng phân, muồng lá tròn, dã hoàng đậu, chư thi đậu…, có tên khoa học là Crotalari mucronata, thuộc họ Cánh bướm Papilionaceae. Là loại cây mọc hoang ở nhiều nơi trên cả nước, thường mọc ven đường đi, bờ sông, đất hoang.
Cây lục lạc ba lá cao khoảng 60cm-1m, lá có 3 chét hình trái xoan ngược, dài 5-7cm, rộng 2cm, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông. Hoa màu vàng, xếp thành chùm gồm những vòng giả, có lông ngắn. Quả đậu hình dải, lúc non có lông, về sau nhẵn.
Hạt nhiều, màu hạt dẻ nhạt hoặc vàng da cam, hình thận. Cây ra hoa từ tháng 6 đến tháng 10. Quả thường được thu hái vào mùa thu, phơi khô và tách lấy hạt. Bộ phận dùng làm thuốc bao gồm cả cây, rễ, hạt, phơi khô để dùng dần.
Theo Đông y, lục lạc có vị ngọt, hơi chát, tính mát, có tác dụng bổ can thận, sáng mắt ích tinh. Thân và lá có vị đắng, tính bình có tác dụng tiêu viêm, lợi tiểu. Còn rễ lục lạc có vị hơi đắng, tính bình, có tác dụng tiêu viêm giúp trợ tiêu hóa. Thường dùng hạt để trị chóng mặt do sốt, suy nhược thần kinh, bạch đới, chứng đa niệu.
Trong dân gian, người ta cho rằng hạt lục lạc ba lá tròn có tác dụng chữa tiểu tiện nhiều lần, đái són, can thận kém, mắt mờ, di tinh, viêm tuyến vú, trẻ con cam tích.
bai-thuoc-chua-benh-tu-cay-luc-lac-ba-la
Sau đây là một số bài thuốc thường dùng từ cây lục lạc ba lá:
- Chữa nước tiểu đục: Hạt lục lạc ba lá 20g sao vàng, hạt bo bo 30g, cây mã đề tươi 20g, râu ngô 12g, cam thảo dây 10g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
- Đau nhức xương khớp, đau dây thần kinh toạ: Thân, rễ (khô) 10 - 15g; Bạch chỉ 20g; Ké đầu ngựa 10g; Khiếm thực 20g. Tất cả đem sắc uống, ngày 1 thang, chia làm 2 lần uống.
- Chữa di tinh, hoạt tinh: Hạt lục lạc ba lá 20g (sao vàng), củ súng 20g, hạt sen 20g. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa bạch đới, tiểu són ở phụ nữ: Dùng hạt sục sạc, rau dừa nước, mỗi vị 20g, sắc với nước uống.
- Chữa đái dầm: Hạt lục lạc ba lá 20g sao vàng. Sắc uống ngày một thang.
- Chữa tăng huyết áp: Hạt lục lạc ba lá 20g sao vàng, hạt muồng muồng (quyết minh tử) 12g sao vàng, lá dâu 12g sao. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
- Chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ: Hạt lục lạc ba lá 20g sao vàng, hạt muồng muồng (quyết minh tử) 12g sao vàng, long nhãn 12g, lá lạc tiên 20g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần hoặc dùng thân, rễ : 10 - 15g; Lá vông nem: 30g; Tâm sen : 5g. Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 2 lần uống.
- Chữa hoa mắt chóng mặt: Hạt lục lạc ba lá 20g sao vàng, hạt muồng muồng (quyết minh tử) 12g sao vàng, cam thảo dây 10g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
Lưu ý: Do hạt lục lạc có tính độc nên khi dùng phải cẩn thận, cần có sự tư vấn của thầy thuốc. Đặc biệt, phụ nữ mang thai không nên dùng.

Theo DS. Mỹ Nữ - Nông nghiệp Việt Nam

Bạch thược trị cơ co giật

Bạch thược là cây được di thực vào Việt Nam từ lâu và trồng nhiều ở Sa Pa. Nó có vị hơi chua, tính ấm, vào tâm, can, tỳ, phế chủ trị dùng chữa ngoại cảm, tả, lỵ, phong nhiệt.



Bạch thược người ta dùng rễ làm thuốc, nên chọn thứ to, mập bằng đầu ngón tay, dài 10 - 15cm, thịt trắng hồng, ít xơ, thái lát mới dùng, thứ nhỏ, lõi đen, sẫm là không tốt.
* Trị phụ nữ hông sườn hay bị đau do can khí uất: Bạch thược, diên hồ sách, nhục quế, hương phụ tán bột, mỗi lần uống 8g với nước ấm.
* Trị cơ co giật: Bạch thược, cam thảo mỗi thứ 16g, sắc uống.
* Trị doanh khí thương tổn, khí nghịch sốt không giảm: Bạch thược 160g, chích thảo 120g, sắc uống.
* Trị âm hư khí uất mà không sốt: Cam thảo 4,8g, hương phụ 30g, phiến cầm 6g, thược dược 38g, thương truật 16g, tán bột, làm hoàn, mỗi lần dùng 10g uống với nước nóng
* Trị can âm bất túc gây ra đầu váng, hoa mắt, tai ù, cơ run giật, chân tay tê: Bạch thược, táo nhân 20g, đương quy, thục địa 16g, mạch môn 12g, xuyên khung, mộc qua 8g, cam thảo 4g, sắc nước uống.
* Trị băng lậu, hạ huyết, rong kinh, ốm yếu gầy mòn: Bạch thược, thục địa, can khương, quế tâm, long cốt, mẫu lệ, hoàng kỳ, lộc giác giao, mỗi thứ 8g, tán bột uống mỗi lần 8g, ngày 3 lần với rượu nóng trước khi ăn hoặc uống với nước sôi.

Theo Lương y Minh Phúc - Kiến thức

Củ Bách bộ chữa ho

Theo Đông y, bách bộ có vị ngọt, đắng, không độc, có tác dụng nhuận phế, chỉ khái, sát trùng. Thường dùng trị ho, giun đũa, giun kim...

Bách bộ còn có tên dây ba mươi, sam síp lạc (Tày), bẳn sam síp (Thái), pê chầu chàng (Mông), hơ linh (K`ho), dây đẹt ác, mùi sấy dòi (Dao), có tên khoa học là Stemona Tuberosa lour là loại dây leo thân cỏ, sống nhiều năm, có thể dài tới 5 - 6m.
Rễ củ, nhiều nạc. Lá mọc đối hay so le, phiến lá hình tim, gân chính hình cung, nhiều gân ngang nhỏ. Hoa mọc ở kẽ lá, màu vàng lục, mặt trong đỏ tía, có mùi hôi. Quả nang, nhiều hạt.
Dây bách bộ thường mọc hoang ở miền núi, bộ phận làm thuốc là rễ củ. Thu hoạch tốt nhất vào mùa thu, rửa sạch, cắt bỏ hai đầu, đem đồ vừa chín hay nhúng nước sôi. Loại nhỏ để nguyên, loại lớn bổ dọc đôi, phơi nắng hay sấy đến khô.
Theo Đông y, bách bộ có vị ngọt, đắng, không độc, có tác dụng nhuận phế, chỉ khái, sát trùng. Thường dùng trị ho, giun đũa, giun kim... Dùng ngoài sắc lấy nước rửa hoặc nấu cao bôi chữa lở ghẻ. Còn có tác dụng diệt côn trùng, bọ gậy, chấy rận.
Sau đây là bài thuốc có bách bộ:
- Chữa ho do cảm mạo, ngứa họng, đờm ít: Bách bộ 16g, kinh giới 12g, bạch tiền 12g, cát cánh 12g. Sắc uống ngày một thang. Uống trong 5 ngày
- Chữa ho tự nhiên không dứt: Bách bộ tươi hơ trên lửa nướng cho khô, mỗi lần lấy nước một ít ngậm nuốt nước.
- Chữa ho gà: Bách bộ 12g, bạch tiền 12g, cam thảo 4g, sắc uống với đường, mỗi ngày chia làm 3 lần uống liên tục 3 - 4 ngày.
- Chữa trẻ em ho do nhiễm lạnh: 30g bách bộ (sao), 30g ma hoàng bỏ đốt, hạnh nhân bỏ vỏ và đầu nhọn, sao, nghiền nhỏ sắc kỹ lấy nước hòa với bách bộ và ma hoàng hoàn thành viên như hạt bồ kết. Mỗi lần uống 2 - 3 viên với nước ấm.
- Tẩy giun: Dùng bách bộ sắc uống 10g mỗi ngày vào lúc sáng sớm, khi đói, uống trong 5 ngày có tác dụng tẩy giun; Bách bộ tươi 40g (bằng 20g bách bộ khô), nước 200ml, sắc đun sôi trong nửa giờ, cô lại còn khoảng 30ml. Dùng nước thuốc thụt giữ 20 phút. Điều trị như vậy trong thời gian 10-12 ngày là khỏi bệnh giun kim.
Chú ý: Người có tì vị hư nhược không nên dùng.

Theo DS Mỹ Nữ - Nông nghiệp Việt Nam

Cây huyết dụ chữa rong kinh

Huyết dụ có tác dụng dùng trị lao phổi với ho thổ huyết, rong huyết, băng huyết, lậu huyết, kinh nguyệt ra quá nhiều, kiết lỵ ra máu.

Cây huyết dụ có lá màu đỏ tím
Cây huyết dụ có lá màu đỏ tím
Cây Huyết dụ có tên khoa học: Folium Cordyline, được trồng nhiều nơi làm cảnh hoặc làm thuốc. Cây Huyết dụ có lá mọc thành chùm ở ngọn cây, lá như mũi dao màu đỏ tím.
Theo Đông y, Huyết dụ có vị nhạt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng bổ huyết, tiêu ứ, cầm máu dùng chữa chứng kiết lỵ, rong kinh, phong thấp nhức xương, xích bạch đới, giảm đau, phong thấp gây đau nhức. Huyết dụ có tác dụng dùng trị lao phổi với ho thổ huyết, rong huyết, băng huyết, lậu huyết, kinh nguyệt ra quá nhiều, kiết lỵ ra máu, phong thấp, đau nhức xương, chấn thương bị sưng, viêm ruột, lỵ, ho gà ở trẻ em. Ngày uống nước sắc từ 20-25g lá tươi. Sau đây là một số tác dụng của cây Huyết dụ:
- Chữa rong kinh, rong huyết: Kinh quá nhiều sau khi đẻ hoặc sẩy thai (nhau đã ra rồi): Lá Huyết dụ 20g, rễ cỏ tranh 10g, đài tồn tại của quả mướp 10g, rễ cỏ gừng 8g. Tất cả mang thái nhỏ sắc với 400ml nước còn 100ml. Chia uống làm 2 lần trong ngày.
- Chữa khí hư bạch đới: Lá Huyết dụ tươi 40g, lá thuốc bỏng 20g, Bạch đồng nữ 20g, sắc uống.
- Chữa ho ra máu: Lá Huyết dụ 10g, rễ Rẻ quạt 8g, Trắc bách diệp sao đen 4g, lá Thài lài tía 4g. Tất cả phơi khô, sắc chia làm 2-3 lần uống trong ngày.
- Chữa bị thương ứ máu hay phong thấp đau nhức: Dùng Huyết dụ cả lá, hoa, rễ 30 g, Huyết giác 15 g, sắc uống.
- Chữa kiết lỵ ra máu: Rễ Huyết dụ 20g, Nhọ nồi 12g, Rau má 20g, rửa sạch giã nát, thêm nước, gạn uống. Dùng 2-3 lần ngày.
- Chữa trĩ ra máu, đái ra máu, băng huyết: Lấy 20g lá Huyết dụ tươi rửa sạch. Đổ 200ml nước vào sắc còn 100ml, chia uống trong ngày.
- Chữa đái ra máu: Lá Huyết dụ 20g, rễ cây Ráng, lá Lấu, lá cây Muối, lá Tiết dê, mỗi vị 10g. Rửa sạch, giã nát, thêm nước, gạn uống. Có thể dùng riêng lá Huyết dụ tươi 40-50g hoặc hoa và lá khô 20-25g.
- Chữa viêm dạ dày, viêm ruột, trĩ nội, hậu môn lở loét ra máu: Huyết dụ tươi 40 g, lá thuốc bỏng (sống đời), lá băn (xích đồng nam) đều 20 g, sắc uống.
- Chữa chảy máu cam, cháy máu dưới da: Lấy 30g lá Huyết dụ tươi, 20g cỏ Nhọ nồi, 20g lá Trắc bá (sao cháy) sắc uống.
- Chữa các loại chảy máu, xuất huyết tử cung và tiêu tiểu ra máu: Lá tươi huyết dụ 40-50 g, sắc uống (hoặc lá khô, hoa khô với lượng bằng 1/2 lá tươi).
Lưu ý: Phụ nữ trước khi sinh con và sau khi sinh mà bị sót nhau thì không được dùng thuốc có vị Huyết dụ và không dùng sau khi nạo thai.

Theo DS. Mỹ Nữ - Nông Nghiệp

Sâm ớt - vị thuốc của quý bà

Cây sâm ớt - còn gọi với tên khác là hoa phấn, phấn đậu hoa, ngân chi hoa đầu, thủy phấn tử hoa - là loại cây mọc hoang hoặc được trồng làm cảnh, bào chế thuốc chữa bệnh.

Đông y cho rằng cây sâm ớt có vị mặn, hơi cay, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, hoạt huyết, tán ứ, tiêu viêm, lợi tiểu, thường dùng chữa kinh nguyệt không đều, viêm đường tiết niệu, chữa viêm họng,... Bộ phận dùng làm thuốc là rễ hoặc toàn cây.
Dưới đây là một số cách trị bệnh từ sâm ớt:
* Trị kinh nguyệt không đều: Sâm ớt 20 g; ích mẫu, rễ củ gai mỗi thứ 16 g; ngải cứu, cỏ xước, cam thảo nam, mỗi thứ 12 g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống liền 3 ngày, trước kỳ kinh 5 ngày.
Hoặc sâm ớt 20 g, ích mẫu 30 g, ngải cứu 25 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 3 lần.

Sâm ớt còn có tác dụng dưỡng da, giảm vết nám và tàn nhangẢnh: Wikipedia.org
Sâm ớt còn có tác dụng dưỡng da, giảm vết nám và tàn nhangẢnh: Wikipedia.org
* Trị chậm kinh: Sâm ớt 20 g, ích mẫu 16 g, ngải cứu 1 g, nghệ đen 20 g, lá móng tay 20 g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống trước kỳ kinh 10 ngày.
* Trị viêm đường tiết niệu (đái buốt, đái dắt): Sâm ớt 20 g, mã đề 20 g, râu ngô 16 g, kim ngân hoa 16 g, cỏ xước 12 g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống liền 1 tuần.
* Trị viêm họng: Sâm ớt 20 g, bồ công anh 15 g, kim ngân hoa 12 g, cam thảo đất 12 g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 5-7 ngày.
* Dưỡng da: Lấy những quả sâm ớt chín đen, phơi khô, bóc bỏ vỏ đen bên ngoài và vỏ lụa màu vàng bên trong, chỉ dùng bột. Hằng ngày vào buổi sáng và tối, lấy bột này trộn lẫn với một chút mật ong thoa đều lên mặt, để khoảng 30 phút rồi rửa sạch lại bằng nước ấm. Thực hiện thường xuyên có công dụng dưỡng da, giảm vết nám và tàn nhang.
Lưu ý: Các bài thuốc này không dùng cho phụ nữ có thai.

Theo BS Tuấn Long - Người lao động

Chữa đau răng với cây hoàng mộc

Theo kinh nghiệm của bà con vùng cao, cây hoàng mộc thường được dùng làm thuốc chữa lỵ, đau răng, ăn uống không tiêu (dùng dưới dạng thuốc sắc, hoặc tán bột uống).

Cây hoàng mộc còn có tên gọi là cây hoàng mù, Đông y gọi là  hoàng liên gai.  Là loại cây bụi nhỏ cao 2 - 3m phân nhánh nhiều; gỗ màu vàng; cành có gai chẻ ba dài 1 - 2cm, mọc dưới các cụm lá.
Lá mọc thành chùm 3 - 4 lá, có khi tới 8 lá ở một đốt. Cuống lá ngắn, phiến lá nguyên, hình mác, mép có răng cưa, to, cứng, mặt trên màu xanh lục nhạt, mặt dưới màu trắng. Hoa màu vàng, mọc thành chùm. Quả mọng, màu đỏ sau đen đen, chứa 3 - 4 hạt. Hoa tháng 5 - 7; quả tháng 10 đến tháng 2 năm sau.
Cây thường mọc hoang ở vùng rừng núi Sa Pa (Lào Cai). Thu hái thân cây và rễ cây, sau đó rửa sạch, cắt ngắn, phơi hoặc sấy khô dùng làm thuốc
Theo nghiên cứu, trong thân và rễ cây hoàng mộc đều chứa 3 - 4% hàm lượng becberin. Hiện cây thuốc này đang được nhân rộng để dùng làm nguyên liệu chiết xuất becberin điều trị hiệu quả nhiễm khuẩn đường ruột, lỵ... an toàn lại rẻ tiền nên tại nhiều địa phương bà con dùng hạt để gieo trồng và sau 2 - 3 năm đã có thể thu hoạch.
Một số bài thuốc thường dùng:
Bài 1: Chữa đau răng: Hoàng mộc 10g, rượu đế loại cao độ 100ml. Hoàng mộc rửa sạch để ráo nước rồi cho vào lọ ngâm với rượu, ngâm trong 10 ngày. Sau đó dùng rượu thuốc chấm vào chỗ răng đau.
Bài 2: Chữa lỵ: Hoàng mộc 4g, nước 150ml, sắc uống trong ngày, có thể thêm ít đường cho dễ uống.
Bài 3: Trị các loại cam nhiệt ở trẻ: Hoàng mộc 12g, thanh đại 10g, hoa bạch cẩn 8g, hoa phù dung trắng 8g, ngũ cốc trùng 8g, lô hội 8g, bạch vu di 8g. Tất cả cho vào ấm đổ 600ml nước, sắc nhỏ lửa còn 300ml nước, chia 3 lần uống trong ngày, dùng liền 5 ngày.
Bài 4: Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Hoàng mộc 12g, ngũ vị tử 6g, mạch môn 8g. Tất cả đổ 600ml nước sắc uống trong ngày. 10 ngày một liệu trình.
Bài 5: Kích thích tiêu hóa: Hoàng  mộc 6g, cho vào ấm  đổ 500ml nước, sắc còn 200ml nước, chia 2 lần uống trong ngày, dùng sau bữa ăn 15 phút. Dùng liền 5 ngày.  Hoặc có thể lấy bột hoàng mộc 10g, bột đại hoàng 20g, bột quế chi 15g. Các vị trộn đều để dùng. Mỗi ngày uống 1g với nước ấm, ngày dùng 3 lần, dùng liền 5 ngày. Lưu ý, phụ nữ có thai không được dùng.

    Theo Khám phá

    Cây bạch đồng nữ - Vị thuốc quý cho chị em

    Cây bạch đồng nữ còn có tên gọi là bần trắng, mấn trắng... Bạch đồng nữ có 2 loại: cho hoa màu trắng gọi bạch đồng nữ, cho hoa màu đỏ gọi là xích đồng nam.

    Bạch đồng nữ thuộc dạng thảo, cao từ 1 - 1,5 cm, lá hình trứng dài từ 10 - 20 cm, rộng từ 8 - 18 cm, đầu nhọn, phía cuống hình tim hay hơi phẳng, mép có răng cưa to, mặt dưới có màu vàng nhạt, trên những đường gân có lông mềm, vò lá ngửi có mùi hôi.
    Theo y học cổ truyền, bạch đồng nữ có vị hơi đắng, tính mát, đi vào 2 kinh tâm và tỳ. Bộ phận thường được dùng làm thuốc là vỏ, rễ, lá phơi khô, nên hái lá vào thời gian gần ra hoa là tốt nhất. Lá có tác dụng chống viêm cấp tính rất tốt.

    Từ xa xưa, bạch đồng nữ là một cây thuốc rất quý đối với các bệnh của chị em, như các bệnh khí hư, huyết trắng, kinh nguyệt không đều, đau bụng trước chu kỳ kinh... Liều dùng thường là 20 gr lá khô, và thường phối hợp với các vị khác như hương phụ, ích mẫu, ngải cứu (mỗi thứ từ 8 - 10 gr) đem sấy khô, sắc uống trong ngày.


    Cây bạch đồng nữ
    Bạch đồng nữ có tính làm giãn mạch rất tốt nên thường được sử dụng trong bệnh cao huyết áp ở giai đoạn 1 chưa rõ nguyên nhân, và bệnh xơ vữa động mạch. Liều dùng 10 - 20 gr lá khô, có thể cho thêm lá dâu tằm 10 gr, rễ tranh 5 gr, sắc uống trong ngày, cộng với người bệnh thực hiện chế độ ăn nhạt, giảm đạm mỡ động vật.

    Trước đây, người dân vùng núi phía bắc dùng bạch đồng nữ hoa đỏ, thêm cây chó đẻ răng cưa, nhân trần (mỗi thứ 12 - 16 gr) đem sao vàng hãm với nước sôi để uống trong ngày, uống trong 3 - 4 tuần để trị viêm gan thể vàng da niêm mạc, nhất là niêm mạc mắt do bị tắc mật. Ngoài ra, người dân vùng núi còn dùng lá bạch đồng nữ tươi đem vò nát cho vào ít muối để nấu nước tắm khi bị ghẻ ngứa, mụm nhọt, chốc lở ở đầu.

    Về sau này, có một số trường hợp người dân mắc hội chứng thận hư nhiễm mỡ cũng dùng bạch đồng nữ chữa trị, bằng cách: mỗi ngày dùng 30 gr bạch đồng nữ đem sao vàng thơm, thêm vào 10 gr rễ cỏ tranh săn (hoặc râu bắp khô) đem nấu uống thường xuyên trong 3 tháng.



    Theo BS Trang Xuân Chi - Thanh niên

    Lợi ích bất ngờ từ chùm ruột

    Mặc dù không được nhiều người chú ý bởi không hấp dẫn vị giác, nhưng chùm ruột là trái cây có thể khống chế rất tốt một số bệnh thông thường như bệnh gan, phổi….

     
    Theo các chuyên gia y tế, quả chùm ruột chứa 0,73 – 0,90% protide, 0,6 – 0,76% lipide, 5,89 – 7,29% glucide, lượng vitamin C đạt tới 40mg % và nhiều dưỡng chất khác có tác dụng rất tốt trong việc lọc máu, kích thích sự thèm ăn, trị viêm phế quản, rối loạn tiêu hóa, viêm tiết niệu và tiêu chảy.
    Không chỉ vậy, một số kết quả nghiên cứu gần đây đã chứng minh hiệu quả trị bệnh của chùm ruột như sau:
    • Trị bệnh gan
    Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Journal of Chinese Integrative Medicine (Trung Quốc) cho biết, chất chống ôxy hóa dồi dào trong quả chùm ruột có tác động tích cực đến quá trình điều trị bệnh gan.
    • Trị xơ nang phổi
    Một công bố khác được xuất bản trong tạp chí Molecular Pharmacology (Mỹ) cho thấy, tinh chất từ nước ép chùm ruột cũng hỗ trợ đắc lực trong việc điều trị bệnh xơ nang phổi.
    • Điều trị chứng huyết áp cao
    Không chỉ thế, một bài báo đăng trên tạp chí European Journal of Pharmacology (châu Âu) khẳng định, chiết xuất từ lá chùm ruột cũng có tác dụng hạ huyết áp rất mạnh.
    • Chống viêm, giảm đau
    Trong khi đó, kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Asian Pacific Journal of Tropical Biomedicine (châu Á) chỉ ra rằng, chiết xuất từ lá chùm ruột còn có khả năng chống viêm, giảm đau và chống ôxy hóa mạnh mẽ.
    • Trị tiêu chảy
    Ngoài ra, theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature and Science cho rằng, các dưỡng chất trong lá chùm ruột cũng có thể ức chế và tiêu diệt vi khuẩn E.coli (gây tiêu chảy) và khuẩn tụ cầu rất tốt.
    • Đẹp da 
    Trái chùm ruột chứa nhiều vitamin C và chất chống oxy hóa mạnh nên rất tốt cho làn da. Da bạn sẽ tươi sáng, mịn màng hơn khi uống 1 ly nước ép chùm ruột mỗi ngày.
    Bạn có thể dùng chùm ruột dưới dạng nguyên trái, ngâm nước đường, ép lấy nước, làm mứt, giã nát lá chùm ruột uống. Với những công dụng đặc biệt này, bạn nên “kết” món ăn vặt giá rẻ lại rất bổ dưỡng, có lợi cho sức khỏe này.
    Lưu ý: Tuy trái và lá chùm ruột rất tốt cho sức khỏe, còn vỏ và rể lại chứa nhiều độc tố, gây hại cho sức khỏe.

    Theo Đình Huệ - Phụ Nữ Online

    Bó xôi - nhiều lợi ích khó ngờ

    Cải bó xôi có vị ngọt cay, tính mát, không độc. Bó xôi có công dụng bổ máu, cầm máu, có lợi cho các tạng, thông mạch máu, giải khát, chống táo bón, bồi bổ và ổn định chức năng gan, trợ giúp tiêu hóa; dùng chữa các chứng như cao huyết áp, đau đầu, chóng mặt, nhức mắt, bệnh tiểu đường, táo bón…
    Tác dụng thực dưỡng
    1. Nhuận trường thông tiện, phòng trị bệnh trĩ:  Bó xôi chứa nhiều chất xơ thực phẩm, có tác dụng tăng cường nhu động của đường ruột, tiện cho bài tiết, trợ giúp tiêu hóa. Bó xôi có tác dụng điều trị đối với các chứng bệnh như trĩ, viêm tuyến tụy mạn tính, táo bón…
    2. Thúc đẩy tăng trưởng, tăng cường sức đề kháng: Bó xôi chứa beta-carotene, khi vào trong cơ thể sẽ biến thành vitamin A, giúp duy trì thị lực bình thường và sức khỏe của tế bào thượng bì, gia tăng sức đề kháng dự phòng bệnh lây nhiễm, giúp trẻ nhỏ tăng trưởng.
    3. Bảo đảm dinh dưỡng, tăng cường sức khỏe: Trong bó xôi chứa nhiều chất dinh dưỡng như beta-carotene, vitamin C và E, canxi, phospho và một lượng sắt nhất định; cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cho cơ thể, có tác dụng hỗ trợ điều trị tốt hơn đối với các trường hợp thiếu máu do thiếu sắt.
    4. Đẩy mạnh tiến trình thay cũ đổi mới trong cơ thể, trì hoãn
    lão hóa: Bó xôi có tác dụng đẩy mạnh tiến trình thay cũ đổi mới trong cơ thể, tăng cường sức khỏe. Ăn nhiều bó xôi có thể giảm nguy cơ trúng phong đột quỵ (tai biến mạch máu não).
    5. Làm sạch làn da, chống già nua: Bó xôi vừa chống lão hóa vừa tăng cường sức sống trẻ trung, không chỉ làm sạch các lỗ chân lông mà còn giảm bớt nếp nhăn và tàn nhang, bảo vệ làn da sáng đẹp.
    Món canh bó xôi nấu với gan dê có tác dụng dưỡng gan, sáng mắtẢnh: Hồng Thúy
    Món canh bó xôi nấu với gan dê có tác dụng dưỡng gan, sáng mắtẢnh: Hồng Thúy
    Các món ăn từ bó xôi
    1. Cháo bó xôi: Bó xôi 50 g, táo đen 50 g, gạo 100 g. Gạo, táo rửa sạch, cho nước nấu thành cháo. Sau khi chín thêm bó xôi nấu sôi lên. Món cháo dinh dưỡng dồi dào, có tác dụng kiện tỳ ích khí (bồi bổ hệ tiêu hóa, tăng năng lực), dưỡng huyết bổ hư (bổ máu chống suy nhược). Cháo bó xôi thích hợp đối với người bị thiếu máu do thiếu sắt, mỗi ngày dùng 1 lần, dùng liền 15 ngày.
    2. Gỏi bó xôi - củ sen: Bó xôi 200 g, củ sen tươi 200 g. Bó xôi chọn loại lá non, rửa sạch, cho vào nước sôi trụng qua; củ sen gọt vỏ cắt sợi, trụng qua nước sôi để khử vị lạ. Các vật liệu trên thêm muối, dầu mè trộn lẫn. Món ăn này có tác dụng làm mát gan, sáng mắt, thích hợp với người thiếu máu gan dẫn đến thị lực kém, chóng mặt, tay chân run rẩy…
    3. Canh bó xôi nấu gan dê: Bó xôi tươi 50 g, gan dê 50 g. Bó xôi rửa sạch cắt đoạn, gan dê cắt lát. Nấu nồi nước khoảng 750 ml, nước sôi bỏ gan dê vào, chờ sôi một lúc nữa thì thêm bó xôi; thêm muối, dầu mè với lượng vừa, nấu sôi. Món canh bó xôi nấu với gan dê có tác dụng dưỡng gan, sáng mắt, thích hợp đối với người có thị lực kém, mắt khô…
    4. Canh bó xôi nấu huyết heo: Bó xôi tươi 500 g, huyết heo 500 g, gừng cắt lát với lượng vừa, hành cắt đoạn lượng vừa. Bó xôi rửa sạch cắt thành đoạn, huyết heo cắt lát. Đặt chảo lên bếp, thêm mỡ, hành, gừng xào bốc thơm; đổ huyết heo vào xào sơ, thêm rượu gạo, xào cho khô nước, thêm vào muối, bột tiêu, bó xôi; sau khi sôi cho vào bát. Món canh này có tác dụng bổ máu, cầm máu, thích hợp cho người máu kém chất lượng, thiếu máu hay chảy máu…
    Lưu ý: Bó xôi chứa axít oxalic và muối canxi có thể kết hợp thành muối oxalat canxi lắng đọng, sẽ làm cho màu nước tiểu của người bệnh viêm thận bị đục, muối kết tinh gia tăng. Do vậy, người bị viêm thận và sỏi thận không nên ăn bó xôi.
    AloBacsi.vn
    Theo Lương y,dược sĩ Bàng Cẩm - Người lao động

    Me rừng - thuốc trị tiểu đường

    Đông y cho rằng quả me rừng có vị chua ngọt, hơi chát, tính mát có công năng sinh tân, chỉ khát, lợi tiểu, hạ nhiệt, tiêu viêm, nhuận phế hóa đờm…

    Me rừng còn gọi là chùm ruột núi, mận rừng, dư cam tử, Mác kham (Tày), Diều cam (Dao), Xì la liên (Kơ ho), tên khoa học Phyllanthus emblica L, thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae. Là loại cây mọc hoang, xuất hiệnnhiều tại các vùng rừng núi Việt Bắc và Tây Bắc nước ta…
    Cây thường mọc ở chỗ sáng, chiều cao thông thường từ 5 - 7m, có khi hơn. Lá nhỏ xếp sít nhau thành hai dãy, trông như lá kép lông chim. Ra hoa vào tháng 4 - 5 hằng năm; hoa nhỏ màu vàng mọc thành tán ở nách. Quả thịt, hình cầu to bằng quả táo ta và có khía rất mờ.
    Bộ phận dùng làm thuốc là quả, lá, vỏ cây và rễ (Fructus, Folium, Cortex et Radix Phyllanthi Emblicae). Quả thu hái vào mùa thu đông, dùng tươi hay phơi khô để dành sử dụng dần. Lá thu hái vào mùa hè thu; vỏ và rễ thu hoạch quanh năm, có thể sử dụng tươi hay sấy khô để dùng dần.
    Theo đông y cho rằng quả me rừng có vị chua ngọt, hơi chát, tính mát có công năng sinh tân, chỉ khát, lợi tiểu, hạ nhiệt, tiêu viêm, nhuận phế hóa đờm… Ở Ấn Độ cũng sử dụng nó làm thuốc mát, lợi tiểu, nhuận tràng.
    Còn lá me rừng có vị cay, tính bình, tác dụng lợi tiểu. Rễ cây có vị đắng chát, tính bình với tác dụng thu liễm, hạ huyết áp. Vỏ cây cũng có tác dụng thu liễm. Hoa me rừng công dụng làm mát, hạ nhiệt, nhuận tràng. Ngoài ra ở Ấn Độ còn thấy người ta sử dụng quả me rừng khô để trị xuất huyết, ỉa chảy và lỵ hoặc phối hợp với sắt để trị thiếu máu, vàng da và chứng khó tiêu.
    Trong đông y cũng được sử dụng đơn độc hay phối hợp như lấy quả me rừng dùng trong trị cảm mạo phát sốt, đau họng, đau răng, chảy máu chân răng, lợi, miệng khô phiền khát, tiểu đường, thiếu vitamine C.
    Dùng rễ cây me rừng làm thuốc trị huyết áp cao, đau thượng vị, viêm ruột, lao hạch và cả bệnh bạch huyết. Còn lá me rừng dùng làm thuốc trị phù thũng, viêm da mẩn ngứa, eczema hay dùng ngoài lấy lá nấu nước tắm rửa phòng trị bệnh ngoài da.
    Bộ phận dùng làm thuốc là quả, lá, vỏ cây và rễ (Fructus, Folium, Cortex et Radix Phyllanthi Emblicae)
    Bộ phận dùng làm thuốc là quả, lá, vỏ cây và rễ (Fructus, Folium, Cortex et Radix Phyllanthi Emblicae)

    Để tham khảo và áp dụng, sau đây xin nêu vài phương thuốc chữa trị các bệnh chứng tiêu biểu.
    * Chữa cảm mạo phát sốt: Quả me rừng 10 - 30g, sắc lấy nước uống, chia làm nhiều lần.
    * Chữa trị huyết áp cao: Rễ cây me rừng 15 - 30g, sắc lấy nước uống trong ngày.
    * Làm lợi tiểu: Lấy 10 - 20g vỏ thân cây me rừng sắc lấy nước uống nhiều lần trong ngày. Hoặc lấy 10 - 20g lá me rừng sắc lấy nước uống. Cũng có thể cho râu ngô, mã đề sắc cùng lấy nước uống nhiều lần trong ngày.
    * Trị tiểu đường: Quả me rừng 15 - 20g, ướp với muối ăn và uống hằng ngày. Hoặc lấy 15 - 20 quả me rừng nấu sôi, sau ướp muối ăn hằng ngày.
    * Trị nước ăn chân: Lấy quả me rừng giã lấy nước bôi vào chỗ chân bị nước ăn.
    * Chữa rắn cắn (chỉ sử dụng khi điều kiện không có y tế hoặc hỗ trợ khi đã được y tế cấp cứu): Lấy vỏ cây me rừng giã pha chút nước ép lấy nước cốt uống còn bã đắp nơi rắn cắn, lấy dây hoặc băng dính băng giữ cho khỏi bị rơi.
    * Chữa phù thũng, Eczema, viêm da, mẩn ngứa: Quả me rừng 10 - 30g, rễ, vỏ me rừng 15 - 30g, lá me rừng 10 - 20g, sắc lấy nước thuốc uống ngày 1 thang, chia 2 - 3 lần.
    Kết hợp dùng ngoài cần lấy một lượng lá me rừng vừa đủ nấu sôi dùng nước tắm rửa hàng ngày.

    Theo BS Hoàng Xuân Đại - Nông Nghiệp

    Kê huyết đằng chữa ra mồ hôi chân, tay

    Kê huyết đằng có vị đắng, chát, hơi ngọt, tính ẩm không độc, có tác dụng bổ khí huyết, thông kinh lạc, mạnh gân xương, điều hòa kinh nguyệt.

    15-56-12_ke-huyen-dang-chua-dau-nhuc-2Kê huyết đằng
    Kê huyết đằng còn gọi là cây máu gà, hồng đằng, huyết rồng, hồng đằng, hoạt huyết đằng, dây máu người…, có tên khoa học làSargentodoxa cubeata.
    Kê huyết đằng là một dây leo, thân gỗ to, khỏe, hình tròn dẹt, mặt cắt có 2-3 vòng gỗ đồng tâm hoặc không đồng tâm và có nhiều nhựa mầu đỏ nâu. Thân và lá non có lông tơ mịn. Lá kép gồm 3 lá chét, lá giữa to hơn, cuống lá kép dài.
    Cụm hoa màu đỏ mọc ở kẽ lá thành chùm chùy. Quả đậu dẹt. Dược liệu kê huyết đằng là thân già được thu hái tốt nhất vào tháng 8-10, chặt về cạo sạch vỏ ngoài, thái phiến mỏng, phơi hoặc sấy khô.
    Theo Đông y, kê huyết đằng có vị đắng, chát, hơi ngọt, tính ẩm không độc, có tác dụng bổ khí huyết, thông kinh lạc, mạnh gân xương, điều hòa kinh nguyệt, đau mình mẩy, phong thấp đau lưng, đau xương khớp, chấn thương tụ máu, kinh nguyệt không đều, thống kinh.
    Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 12 - 40g, dạng thuốc sắc hay rượu thuốc. Sau đây là một số công dụng của kê huyết đằng:
    - Chữa thiếu máu hư lao: Kê huyết đằng 200-300g, tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu trong 7-10 ngày. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 25 ml. Dùng riêng hoặc phối hợp với nhiều vị thuốc khác như Thục địa, Đan sâm, Hà thủ ô đỏ (liều lượng bằng nhau). Còn có thể dùng cao đặc cô từ nhựa, mỗi ngày 2-4g, pha với rượu uống.
    - Chữa đau dây thần kinh hông: Kê huyết đằng 20g, ngưu tất 12g, hồng hoa 12g, đào nhân 12g, nghệ vàng 12g, nhọ nồi 10g, cam thảo 4g. Sắc với 500ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày.
    - Chữa đau các khớp tứ chi: Kê huyết đằng, ngũ gia bì hương, độc hoạt, uy linh tiên, tang chi (mỗi vị 10 -12g). Sắc uống trong ngày.
    - Chữa viêm khớp dạng thấp: Kê huyết đằng, hy thiêm, thổ phục linh, rễ vòi voi mỗi vị 16g; ngưu tất, sinh địa mỗi vị 12g; nam độc lực, rễ cà gai leo, rễ cây cúc ảo, huyết dụ mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
    - Chữa kinh nguyệt không đều: Kê huyết đằng 10g, tô mộc 5g, nghệ vàng 4g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống làm một lần trong ngày. Phụ nữ có thai không được dùng.
    - Chữa tê thấp, nhức mỏi gân xương: Kê huyết đằng 12g, cây mua núi 12g, rễ gối hạc 12g, rễ phòng kỷ 10g, vỏ thân ngũ gia bì chân chim 10g, dây đau xương 10g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm rượu uống. Ngày 50ml chia làm 2 lần.
    - Chữa đau lưng: Kê huyết đằng 16g, rễ trinh nữ 16g, tỳ giải 16g, ý dĩ 16g, cỏ xước 12g, quế chi 8g, rễ lá lốt 8g, thiên niên kiện 8g, trần bì 6g. Sắc uống
    - Chữa các chứng khí hư, huyết thiếu, người mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt: Kê huyết đằng 16g, hà thủ ô đỏ 12g, đương quy 12g, nhân sâm 10g, thục địa 12g, đan sâm 12g, sắc đặc, cô thành cao lỏng, ngày uống 1 thìa canh pha với rượu hoặc nước chín để uống.
    - Chữa viêm khớp dạng thấp: Kê huyết đằng, hy thiêm, thổ phục linh, mỗi vị 16g; ngưu tất, sinh địa mỗi vị 12g; nam độc lực, rễ cà gai leo, rễ cây cúc ảo, huyết dụ mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
    - Chữa đau khớp chân, tay: Kê huyết đằng 16 g, cẩu tích 12g, tục đoạn 12g, xuyên khung 12g, dây đau xương 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần.
    - Chữa ra mồ hôi tay, chân: Kê huyết đằng 16g, đương quy 16g, bạch truật 12g, hoàng kỳ 12g, ý dĩ nhân 12g, thương truật 10g, sa sâm 12g, hoài sơn 12g, mẫu lệ 10g, sài hồ 10g, ô tặc cốt 10g, quả lá lốt 10g, tỳ giải 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

    Theo DS. Mỹ Nữ - Nông nghiệp

    Thứ Hai, 5 tháng 1, 2015

    Cây móng lưng rồng chữa viêm gan

    Móng lưng rồng khô điều trị tốt bệnh viêm gan, vàng da vàng mắt, tắc mật, hủy hoại tế bào gan, tiểu tiện vàng sánh.

    Cây móng lưng rồng còn gọi là Thạch bá chi, cây chân vịt, Vạn niên tùng, Hoàng dương thảo, Hồi sinh thảo, Trường sinh thảo, Cải tử hoàn thảo, Linh chi thảo…, có tên khoa học Selaginella Tamariscina...
    Cây móng lưng rồng là cây thảo, mọc ở đất trong rừng râm mát, rễ phụ bám chắc vào các phiến đá. Sống lâu năm, cao 10-30cm. Thân đứng hoặc nằm, tròn, màu cánh gián, phân nhánh theo lối rẽ đôi. Rễ phụ từ gốc tỏa các nhánh đâm xuống đất. Lá nhiều, nhỏ, có lưỡi nhỏ. Có hai loại lá, lá ở mặt phẳng dưới thì mọc đối, trải ra hai bên, lá ở mặt phẳng trên thì hướng về phía trước.
    Lá hình trứng, đầu nhọn, mép lá có răng cưa thưa. Thu hái toàn cây rồi cắt bỏ rễ, có thể dùng cây khô hoặc tươi đều được. Ngày dùng 20-30g cả lá và rễ khô dưới dạng thuốc sắc uống trong ngày. Dùng ngoài dưới dạng sao giòn, tán bột rắc lên vết thương.
    Cây móng lưng rồng khô
    Cây móng lưng rồng khô
    Theo Đông y, cây móng lưng rồng có vị hơi đắng, không mùi, tính lạnh và sáp, không độc. Dùng móng lưng rồng tươi có tác dụng tan huyết. Dùng khô sao đen có tác dụng cầm máu, do đó được dùng để điều trị tiểu tiện ra máu, trĩ ngoại, đại tiện có máu tươi, phụ nữ kinh nguyệt kéo dài, chữa bỏng.
    Đặc biệt, móng lưng rồng khô còn điều trị tốt bệnh viêm gan, vàng da vàng mắt, tắc mật, hủy hoại tế bào gan, tiểu tiện vàng sánh.
    Sau đây là một số tác dụng của cây móng lưng rồng:
    - Chữa ho ra máu, nôn ra máu, đái ra máu, đi ngoài phân đen, kinh nguyệt quá nhiều: Móng lưng rồng 30g, Long nha thảo 25g. Sắc uống, ngày một thang
    - Chữa viêm gan cấp tính: Móng lưng rồng 30g; Mộc thông, Ngưu tất mỗi vị 20g. Sắc uống trong ngày.
    - Chữa nhức mỏi toàn thân, viêm khớp xương bả vai, đau dây thần kinh tọa, viêm xoang, thoái hóa cột sống: Dùng 30g cây móng lưng rồng sao thơm rồi hãm nước sôi uống thay trà, thời gian dùng có thể kéo dài hàng tháng.
    - Chữa bỏng lửa: Móng lưng rồng sao thơm, tán bột trộn với lòng trắng trứng gà, đắp lên nơi bỏng, sau 2-3 giờ thay một lần.
    - Chữa trĩ xuất huyết: Móng lưng rồng 15g, nấu sôi, chắt lấy nước uống trong ngày thay trà.
    - Chữa váng đầu, hoa mắt, vàng da: Toàn cây móng lưng rồng 30g sắc với 500ml nước, chia 2 lần uống trong ngày.
    Kiêng kỵ: Phụ nữ có thai không được dùng.

    Theo DS Mỹ Nữ - Nông Nghiệp Việt Nam

    Cây vòi voi phòng trị thoái hóa khớp gối

    Thoái hóa khớp gối là bệnh thường gặp ở người cao tuổi. Bệnh gây đau đớn, vận động khó khăn, ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ, tâm lý và hiệu quả lao động của người bệnh.

    Tập luyện 
    Động tác 1: Bệnh nhân đứng thẳng co một chân lên, dùng bàn tay nắm lấy bàn chân cùng bên, kéo gót chân về phía mông. Giữ nguyên trong 30 giây, sau đó thả ra. Đổi chân bên kia, mỗi bên làm 3 - 5 lần. Động tác kéo giãn cơ từ đầu đùi giúp giải phóng sức căng đè lên mặt trước khớp gối.
    Động tác 2: Người bệnh đứng người thẳng một chân phía trước và chân phía sau như tư thế chuẩn bị chạy. Gấp khớp gối trước hướng xuống sàn. Giữ tư thế này trong 30 giây rồi thả ra. Đổi chân bên kia, mỗi bên làm 3 - 5 lần. Động tác giúp giãn cơ tăng cường lưu thông máu tới gối.

    Động tác 3: 
    Người bệnh giữ thăng bằng, nhắc lần lượt tay nọ chân kia như đi duyệt binh sao cho cẳng chân tạo với đùi một góc 90o. Làm động tác này mỗi chân 20 - 30 lần, có vai trò giảm co cứng khớp gối, tăng cường dinh dưỡng, giúp tái tạo dịch nhờn bôi trơn ổ khớp.

    Bài thuốc Nam 
    Nguyên liệu: Lá lốt 12g, cành quế 12g, cỏ xước 150g, rễ mắc cỡ (xấu hổ) 120g, thiên niên kiện 6g, đỗ đen 30g. Tất cả cho sâm sấp nước đun kỹ, chia uống hai lần trong ngày sau ăn cơm 30 phút - 1 tiếng. Nếu đầu gối sưng nóng đỏ thì uống thuốc khi đã nguội và uống lúc còn ấm khi đầu gối đau lạnh. Hai ngày uống 1 thang. Nếu đau có tính chất di chuyển thêm phòng phong 20g, đau nhức nặng tại chỗ thêm ý dĩ 15g.
     Lương y Chu Văn Tiến hướng dẫn động tác 1
    Trà thuốc
    Rễ cây xấu hổ cắt miếng mỏng, phơi khô, sao vàng, tẩm rượu 35 - 40o để ngấm, sao khô, mỗi ngày lấy 120g hãm, sắc uống. Sau 4 - 5 ngày sẽ thấy kết quả. 

    Thuốc đắp - chườm
    1. Cây vòi voi một nắm đem giã nhuyễn với một chút muối đắp vào khớp gối sưng nóng đỏ đau, ngày thay thuốc. Làm như vậy khi có kết quả thì dừng.
    2. Muối 100 - 200g rang nóng bọc vải chườm quanh khớp gối, ngày 1 - 2 lần dùng trong trường hợp khớp gối đau lạnh.
    3. Gừng tươi một củ to, lá đu đủ 1 - 2 lá, tất cả đem giã nhuyễn với một chút muối, rượu, đắp thuốc ngày một lần, dùng trong trường hợp khớp gối đau cứng, khó vận động.

    Xoa bóp - bấm huyệt

    Xoa bóp: Người bệnh ngồi thả lỏng trên giường cứng, hai chân duỗi thẳng. Hai bàn tay ôm lấy hai bên khớp gối, xát quanh khớp từ trên xuống và ngược lại khoảng 20 lần. Tiếp đó dùng hai bàn tay úp lên hai xương bánh chè, day tròn theo chiều thuận và ngược kim đồng hồ mỗi chiều khoảng 20 lần. 
    Bấm huyệt: Bệnh nhân ngồi tư thế thoải mái, dùng ngón tay cái lần lượt day bấm các huyệt độc tỵ (chỗ lõm đầu ngoài xương bánh chè), tất nhãn (chỗ lõm dưới, đầu trong xương bánh chè), hạc đỉnh (chỗ lõm bờ trên xương bánh chè) và huyết hải (gấp gối 90o từ giữa bờ trên xương bánh chè đo lên 1 thốn vào trong 2 thốn) với lực nhẹ nhàng thấm sâu mỗi huyệt 2 - 3 phút.

    Theo Lương y Chu Văn Tiến - Kiến thức

    Thuốc từ cây tầm bóp

    Quả tầm bóp có vị chua, tính bình, tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu đờm. Chủ trị các chứng bệnh như cảm sốt, yết hầu sưng đau.


    Cây Tầm bóp còn gọi là cây Lồng đèn hay cây Thù lù canh, tên khoa học là Physalis angulata L. thuộc họ Cà (Solanaceae). Có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ, sau trở thành liên nhiệt đới. 

    Cây mọc hoang trên khắp nơi, ở trên các bờ ruộng, bãi cỏ, đất hoang hay hai bên ven đường đi làng quê. Cũng nhìn thấy ở ven rừng từ vùng thấp đến vùng có độ cao 1.500m so với mặt nước biển. Dược liệu sử dụng tươi hay phơi khô dùng dần.

    Là loại cây thảo mọc hoang hàng năm, cao 50 – 90cm, phân nhiều cành. Thân cây có góc, thường rủ xuống. Lá mọc so le, hình bầu dục, chia thùy hay không, dài 30 – 35mm, rộng 20 – 40mm; cuống lá dài từ 15 – 30mm.

    Hoa mọc đơn độc, có cuống mảnh, dài khoảng 1cm. Đài hình chuông, có lông, chia ra từ phía giữa thành 5 thùy, tràng hoa màu vàng tươi hay màu trắng nhạt, có khi điểm những chấm màu tím ở gốc, hơi chia 5 thùy.

    Quả mọng tròn, nhẵn, lúc non màu xanh, khi chín màu đỏ, có đài cùng lớn với quả, dài 3 – 4cm, rộng 2cm, bao trùm lên ở ngoài như cái túi, hạt nhiều hình thận. Khi bóp quả vỡ phát ra tiếng bộp. Cây ra hoa kết quả quanh năm. Bộ phận sử dụng làm thuốc là toàn cây có tên dược Herba physalis Angulatae.

    Đông y cho rằng, toàn cây Tầm bóp có vị đắng, tính mát, không độc. Có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, khu đàm, chỉ khái, nhuyễn kiên tán kết. Quả tầm bóp có vị chua, tính bình, tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu đờm. Chủ trị các chứng bệnh như cảm sốt, yết hầu sưng đau, ho nhiều đờm, phiền nhiệt, nôn, nấc.

    Dùng ngoài trị nhọt vú, đinh độc, đau bìu dái, hoặc nấu lấy nước rửa. Quả Tầm bóp ăn được, sử dụng trị đờm nhiệt sinh ho, thủy thũng, đắp ngoài trị đinh sang, rễ tươi nấu với tim lợn và chu sa ăn trị chứng tiểu đường. Ở Ấn Độ người ta còn sử dụng toàn cây Tầm bóp làm thuốc lợi tiểu, lá được sử dụng trị chứng rối loạn của dạ dày…

    Để tham khảo và có thể áp dụng trong trị liệu khi cần thiết, dưới đây xin giới thiệu những phương thuốc trị bệnh từ cây Tầm bóp.

    * Trị cảm mạo (yết hầu sưng đau, ho nhiều đờm, phiền nhiệt, nôn nấc):Lấy 20 – 40g Tầm bóp khô sắc uống, ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần.

    * Trị nhọt vú, đinh độc, đau bừu dái: Dùng 40 – 80g cây Tầm bóp tươi giã vắt lấy nước cốt uống. Còn bã đắp lên nơi sưng đau hay nấu nước rửa.

    Hoặc trị đinh nhọt có thể lấy quả Tầm bóp, giã đắp lên vùng đau ngày thay 1 lần.

    * Trị ho do đờm nhiệt: Lấy quả Tầm bóp 30 – 40g, sắc lấy nước uống nhiều lần trong ngày.

    * Trị thủy thũng: Lấy 40 – 60g quả Tầm bóp, sắc lấy nước uống rải rác trong ngày.

    * Trị tiểu đường: Rễ tươi cây Tầm bóp 30 – 40g, tim lợn 1 quả, Chu sa 1g. Nấu nhừ ăn cả nước lẫn cái trong ngày. Cần ăn 5 – 7 lần (cách 1 ngày ăn 1 lần).


    Theo BS Hoàng Xuân Đại - Nông nghiệp

     
    Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons