Lá
lằng hay lá đắng, sâm nam được lấy từ cây chân chim thuộc họ nhân sâm.
Cây mọc hoang nhiều ở ven rừng, đồi núi, chân núi, sườn đồi với độ cao
từ 600m trở xuống.
Vào những tháng hè nắng nóng, gió Lào, ai đã qua vùng Quỳnh Lưu, Nghệ
An và được thưởng thức món canh lá lằng, dù chỉ một lần đều không thể
quên được hương vị đăng đắng, mùi thơm nhẹ và lạ miệng của một món canh
độc đáo của vùng này. Nhiều người ăn quen lâu ngày trở nên nghiền. Người
dân nơi đây coi lá lằng là loại thực phẩm rất quý và vị thuốc mát, giải
nhiệt, chống nóng, háo khát, kích thích tiêu hóa và nhuận gan. Để chuẩn
bị luôn có nguyên liệu, vào khoảng tháng 5-7, người ta hái những lá
bánh tẻ của cây lằng đem về, rửa sạch, thái nhỏ, phơi nắng cho khô (càng
được nắng càng tốt) rồi bảo quản trong lọ kín. Khi dùng, nấu canh bằng
một trong các loại rau như: rau đay, rau giền, rau mồng tơi với tôm,
tép, cua. Khi rau chín, bỏ vào canh một dúm lá lằng khoảng 5-10g cắt
thật nhỏ (tùy khẩu vị thích đắng ít hay đắng nhiều) và thêm gia vị cho
đủ độ đậm ngọt. Ăn vào bữa cơm trong ngày.
Ở những địa phương khác, nhân dân lấy lá lằng 100g, thái nhỏ, nấu với
1 lít nước đến sôi, để nguội, dùng uống trong ngày như nước vối, nước
chè.
Dùng ngoài, lá lằng 30g phối hợp với lá dâu tằm 30g, lá mía tía
20g, củ nghệ đen 20g. Tất cả để tươi, rửa sạch, giã nát. Tẩm rượu 30 độ
cho xâm xấp, xào nóng, đắp bằng và cố định bằng nẹp tre, chữa gãy xương
(kinh nghiệm của dân tộc Tày ở Lạng Sơn).
DS. Hữu Bảo
0 nhận xét:
Đăng nhận xét