Mực tầu là một loại mực màu đen được sử dụng rộng
rãi ở nhiều nước phương Đông và một vài nước khác như Ai Cập, Anh...
trong quá khứ để viết, in và vẽ. Nền tảng của mực này là chất màu cacbon
đen pha trong chất keo lỏng hay các môi trường gắn kết khác. Theo cổ
thư Trung Quốc, mực tàu được làm từ muội than của nhựa hoặc gỗ cây thông
bị đốt cháy rồi hoà với chất keo và hương liệu. Tuy nhiên, muội than
của các dạng gỗ khác nhau cũng được sử dụng và sẽ tạo ra các loại mực có
tông màu khác nhau.
Trong các dược thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo thập di, mực tàu được gọi bằng nhiều tên khác nhau như ô kim, trần hương, huyền hương...và được dùng làm thuốc với vị cay, tính bình, không độc, vào được các đường kinh tâm, can và thận, có công dụng chỉ huyết (cầm máu) và tiêu thũng (làm hết phù nề), được dùng để chữa các chứng bệnh như thổ huyết (nôn ra máu), nục huyết (chảy máu cam), băng huyết, huyết lỵ (kiết lỵ phân có lẫn máu), ung thũng phát bối (nhọt độc ở vùng gáy, lưng)... Theo sách Cương mục, mực tàu có tác dụng lợi tiểu tiện, điều hoà kinh nguyệt; sách Khai ngọc bản thảo cho rằng mực tàu có khả năng chỉ huyết, sinh cơ phu ; theo sách Bản thảo tái tân, loại mực này có công năng bình can thanh phế, trừ phong nhiệt, chỉ khái thấu, sinh tân giải khát. Về cách dùng: nên chọn loại mực để càng lâu thì càng tốt, nếu uống trong thì lấy 1 đến 3 tiền mài uống hoặc tán bột trộn với các vị thuốc khác để làm thuốc hoàn tán, nếu dùng ngoài thì mài với nước để bôi xoa.
Ví như, để chữa nôn ra máu nhiều dùng bột mực tàu 2 tiền hoà với nước
a giao uống ; để chữa chứng chảy máu cam nặng lấy nước mực tầu đặc nhỏ
vào lỗ mũi ; để trị băng huyết dùng bột mực tầu 1 thìa uống; để chữa
chứng xích bạch lỵ (kiết lỵ đi ngoài phân có máu hoặc nhầy mũi) dùng can
khương và mực tàu, mỗi thứ 2 lạng hoà với dấm làm thành viên hoàn to
bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống vài lần, mỗi lần 30 viên với nước cơm;
để trị nhọt độc ở lưng dùng mực tàu mài với dấm xoa xung quanh tổn
thương, ở giữa lấy mật lợn bôi... Như vậy, có thể thấy, trong y dược học
cổ truyền mực tàu được dùng để chữa khá nhiều mặt bệnh khác nhau. Tuy
nhiên, với những tài liệu, sách vở có trong tay và tham khảo kinh nghiệm
của nhiều lương y, chúng tôi chưa thấy việc dùng mực tàu để chữa bệnh
giời leo bao giờ. Có thể đây là kinh nghiệm dân gian của một vài địa
phương hoặc lương y nào đó mà chúng tôi chưa biết được. Chúng tôi sẽ cố
gắng tiếp tục tìm hiểu và phúc đáp độc giả trong thời gian sớm nhất.
Trong các dược thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo thập di, mực tàu được gọi bằng nhiều tên khác nhau như ô kim, trần hương, huyền hương...và được dùng làm thuốc với vị cay, tính bình, không độc, vào được các đường kinh tâm, can và thận, có công dụng chỉ huyết (cầm máu) và tiêu thũng (làm hết phù nề), được dùng để chữa các chứng bệnh như thổ huyết (nôn ra máu), nục huyết (chảy máu cam), băng huyết, huyết lỵ (kiết lỵ phân có lẫn máu), ung thũng phát bối (nhọt độc ở vùng gáy, lưng)... Theo sách Cương mục, mực tàu có tác dụng lợi tiểu tiện, điều hoà kinh nguyệt; sách Khai ngọc bản thảo cho rằng mực tàu có khả năng chỉ huyết, sinh cơ phu ; theo sách Bản thảo tái tân, loại mực này có công năng bình can thanh phế, trừ phong nhiệt, chỉ khái thấu, sinh tân giải khát. Về cách dùng: nên chọn loại mực để càng lâu thì càng tốt, nếu uống trong thì lấy 1 đến 3 tiền mài uống hoặc tán bột trộn với các vị thuốc khác để làm thuốc hoàn tán, nếu dùng ngoài thì mài với nước để bôi xoa.
Muội than gỗ thông, nguyên liệu chế biến mực tàu.
|
ThS.Hoàng Khánh Toàn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét