Nhó đông (Morinda longissima Y.Z.Ruan) thuộc họ cà
phê (Rubiaceae). Cây mọc hoang rải rác ở ven rừng thứ sinh hoặc ở trên
nương rẫy cũ với độ cao dưới 800m. Thường gặp ở Sơn La, Lào Cai, Quảng
Nam, Thừa Thiên Huế.
Bộ phận dùng làm thuốc của cây nhó đông là rễ, thu
hái quanh năm, tốt nhất vào mùa thu, đào về, rửa sạch, phơi hoặc sấy
khô. Dược liệu có vị đắng, màu vàng, tính bình, không độc, có tác dụng
thanh nhiệt, giải độc, kiện tỳ, hoạt huyết, tiêu viêm, tán ứ, chữa viêm
gan, vàng da, xơ gan, được dùng dưới các dạng thuốc sau:
- Nước sắc: dược liệu nhó đông 20 - 30g, thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày.
|
- Cao mềm: lấy 1kg rễ nhó đông thái mỏng, đổ nước xâm
xấp, nấu kiệt làm 2 lần. Lần thứ nhất nấu trong 6 - 8 giờ, rút nước.
Lần thứ hai trong 3 - 4 giờ. Trộn hai nước lại cô nhỏ lửa thành cao mềm.
Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3 - 4g.
Ngoài ra, còn dùng dạng cốm được bào chế từ cao nhó
đông trộn với đường. Thuốc giúp người bệnh ăn ngủ tốt, hết vàng da, vàng
mắt, đầy bụng.
Đồng bào ở xã Chiềng An, thị xã Sơn La còn dùng rễ
hoặc thân già (phần sát gốc rễ của cây nhó đông phối hợp với rễ cây hé
mọ (Psychotria) để chữa viêm đại tràng với kết quả tốt.
TTƯT.DSCKII. Đỗ Huy Bích
0 nhận xét:
Đăng nhận xét