Ở phương Tây, trong dịp Tết và Noel không thể thiếu
con ngỗng quay trên bàn ăn bởi họ quan niệm ăn thịt ngỗng trong dịp năm
mới sẽ đem lại cho gia đình mình nhiều may mắn. Ở nước ta, ngỗng cũng
được các đầu bếp chế biến thành những món ăn khá độc đáo như ngỗng quay,
ngỗng tẩm bột, ngỗng xào lăn, ngỗng nướng, ngỗng hấp... Với thành phần
giàu protein, lipid, các hợp chất carbon, Ca, P, Fe, vitamin C... không
chỉ có giá trị về dinh dưỡng, ngỗng còn có công dụng làm thuốc chữa bệnh
được nhân dân ta sử dụng từ lâu đời.
Theo Đông y, thịt ngỗng ngọt, tính bình, vào tỳ phế.
Tác dụng bổ ngũ tạng, ích khí bổ hư, ngừng tiêu khát. Dùng cho các
trường hợp gầy còm, mỏi mệt, suy nhược cơ thể, tiểu đường. Mật ngỗng
thanh nhiệt giải độc; máu ngỗng trị trúng tên độc; trứng ngỗng bổ trung
ích khí; lông và màng da chữa bệnh ngoài da, vỏ trứng trị mụn nhọt...
Sau đây là một số cách dùng ngỗng làm thuốc.
Trị ung nhọt: lông ngỗng sao cháy 40g, phèn chua 80g. Nghiền nhỏ, dùng nước cơm làm thành viên. Mỗi lần 8g, uống với rượu nhẹ.
Thịt ngỗng hầm bổ khí, bổ âm, dùng trong trường hợp người mệt,
ăn kém, đái tháo đường.
|
Hoặc lông ngỗng sao tồn tính 40g, hùng hoàng 12g,
xuyên ô 6g, thảo ô 6g, sáp ong vừa đủ. Nghiền trộn lông ngỗng, hùng
hoàng, xuyên ô, thảo ô thành bột mịn; giã trộn với sáp ong nóng chảy để
làm viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4g, uống với rượu. Trị mụn nhọt độc.
Trị phong độc ngứa lở: khổ sâm 600g, lông
ngỗng 320g. Lông ngỗng sao tồn tính, trộn với khổ sâm khô, tán nhỏ. Dùng
nước cơm làm hồ, viên bằng hạt ngô (3g). Lấy chu sa làm áo. Ngày uống 2
lần, mỗi lần 5 - 10g, uống với rượu loãng. Chữa phong ngứa nổi khắp
mình, nổi đỏ, gãi ngứa khác thường, chân tay đau nhức, da dẻ nứt nẻ, phụ
nữ âm hộ lở loét ướt và ngứa.
Giảm đau, chịu đánh không đau: ống lông
ngỗng có máu 7 cái, giun đất 7 con, nhũ hương 5g. Lông ngỗng sao cháy
tồn tính, giun đất sao hoặc nướng giòn cùng với nhũ hương nghiền thành
bột mịn, thêm ít sáp ong làm viên. Ngày uống 2 lần (sáng, tối); mỗi lần
uống 4g với rượu loãng.
Trị hạch ở cổ (loa lịch): lấy tất cả lông,
màng da chân và miệng, để lên miếng ngói đang nung đỏ cho cháy. Lấy
than nghiền nhỏ chia làm 10 phần, mỗi phần uống trong ngày, uống sau bữa
ăn.
Nước ép thịt ngỗng: thịt ngỗng cả con, làm sạch bỏ ruột, hầm nấu ép lấy nước. Dùng cho bệnh nhân đái tháo đường.
Ngỗng hầm bổ khí: ngỗng 1 con, hoàng kỳ
30g, đảng sâm 30g, sơn dược 30g. Ngỗng làm sạch bỏ ruột; cùng nấu dược
liệu, thêm gia vị cho phù hợp. Dùng cho các trường hợp tỳ vị hư nhược,
ăn kém, mệt mỏi.
Ngỗng hầm song bổ thang: thịt ngỗng 1 con,
thịt lợn nạc 200g, sơn dược 20g, sa sâm 20g, ngọc trúc 20g. Cho vào
nồi, thêm nước và gia vị vừa ăn, đun nhỏ lửa hầm nhừ. Bổ khí, bổ âm,
dùng trong trường hợp miệng họng khô, khát nước, mệt mỏi, thở gấp, ho
suyễn, ăn kém, đái tháo đường...
Kiêng kỵ: Người đang có thấp nhiệt (nhiễm khuẩn cấp tính) không dùng.
Thịt ngỗng tác dụng bổ âm, bổ khí mạnh, nhưng tránh lạm dụng vì dễ gây rối loạn tiêu hóa.
BS. Tiểu Lan
0 nhận xét:
Đăng nhận xét