Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2014

Trị mụn nhọt, mẩn ngứa từ cây có tên "đơn"

"Đơn" theo YHCT thuộc về chứng phong nhiệt, được biểu hiện ở một số triệu chứng như sưng, đỏ, đau, ngứa. Đơn là màu đỏ, màu son, thực chất đó là các bệnh viêm cơ nhục (viêm vú, bắp chuối...), mụn nhọt, dị ứng, ban chẩn, mẩn ngứa... Để trị bệnh đơn, YHCT thường dùng những cây thuốc mang tên đơn. Dưới đây, xin giới thiệu một vài bài thuốc tiêu biểu.
Đơn đỏ, còn gọi là bông trang đỏ - là cây vừa làm cảnh vừa làm thuốc. Bộ phận dùng của đơn đỏ là hoa, lá, rễ; thu hái quanh năm, tươi hoặc khô đều được. Trong nhân dân thường dùng lá để chữa các chứng:
Trị mụn nhọt, mẩn ngứa từ cây có tên "đơn" 1

Mẩn ngứa, dị ứng: lá đơn đỏ 25g, sắc uống ngày 2 - 3 lần, trước bữa ăn hoặc phối hợp với lá đơn tướng quân, kim ngân hoa, ké đầu ngựa, lá mã đề, mỗi vị 12g. Sắc uống, ngày 1 thang, chia 3 lần trước bữa ăn.
Chữa nhọt độc, đinh râu, lở ngứa: phối hợp với các loại lá tươi như lá cỏ thài lài, lá bầu đất, lá đậu ván, đồng lượng. Tùy theo diện tích bề mặt của mụn, nhọt, to hay nhỏ mà lượng lá có thể dùng nhiều hay ít. Các loại lá rửa sạch, giã nát, rồi đắp và băng lại nơi bị bệnh, ngày 1 lần.
Chữa lỵ: hoa đơn đỏ 10 - 15g/ ngày, sắc uống trước bữa ăn. Rễ tươi ngâm rượu (100g dược liệu ngâm trong 400ml rượu 30 độ), sau 2 tuần là được, mỗi lần uống 20 - 30ml, ngày 2 - 3 lần trước bữa ăn.
Đơn lá đỏ còn gọi là đơn mặt trời, cũng là một cây vừa làm cảnh vừa làm thuốc. Thu hái lá vào lúc cây sắp ra hoa, phơi khô. Trước khi dùng, sao vàng. Theo YHCT, đơn lá đỏ có vị cay, hơi đắng, có tác dụng khử phong, thanh nhiệt, thông kinh, hoạt lạc, chỉ thống. Lá đơn đỏ trị các bệnh:
Trị mụn nhọt, mẩn ngứa: lá đơn lá đỏ 6 - 9g/ ngày, sắc uống trước bữa ăn. Có thể phối hợp với kim ngân hoa hoặc kim ngân đằng, ké đầu ngựa, liên kiều, mỗi vị 8-12g, sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trước bữa ăn.
Trị mụn nhọt, mẩn ngứa từ cây có tên "đơn" 2

Trị tiêu chảy lâu ngày hoặc kiết lỵ ở trẻ em: liều lượng tùy theo tuổi, có thể tăng dần từ 4 - 12g, sắc uống ngày 3 lần trước bữa ăn.
Đơn tướng quân: còn gọi là gioi 3 lá. Bộ phận dùng của cây là lá thu hái vào mùa hạ, tươi hoặc khô. Theo YHCT, đơn tướng quân có vị hơi chát, tác dụng giải độc, tiêu viêm. Dùng trị các bệnh:
Nhọt độc, sưng tấy, mẩn ngứa, mày đay, dị ứng: ngày dùng 50 - 100g lá tươi, sắc uống hoặc sắc lấy nước tắm rửa.
Trị viêm họng đỏ, viêm phế quản cấp và mạn bằng cách chế thành cao đặc rồi phối hợp với mật ong và tá dược làm viên hoàn, ngày dùng 10 - 20g chia 3 lần uống trước bữa ăn.
Đơn rau má: còn gọi là rau vẩy ốc, vẩy ốc đỏ. Bộ phận dùng: toàn cây. Theo YHCT, đơn rau má có vị chát, tính hơi ấm, có tác dụng cố tinh, tiêu tích, tán ứ, hoạt huyết, lợi thấp. Đơn rau má trị các bệnh:
Trị di tinh ở nam giới hoặc khí hư bạch đới ở phụ nữ: quả đơn rau má, quả kim anh (bỏ hạt), rễ bạch quả, rễ thích tật lê, rễ thiên hoa phấn, mỗi vị 9g, sắc uống, ngày 1 thang.
Toàn cây đơn rau má ngâm rượu uống chữa phong thấp tê đau: rễ tươi ngâm rượu (100g dược liệu ngâm trong 400ml rượu 30 độ), sau 2 tuần là được, mỗi lần uống 20-30ml, ngày 2-3 lần trước bữa ăn.
GS. TS. Phạm Xuân Sinh

Cà dại hoa trắng

Cà dại hoa trắng, thuộc họ cà, là loại cây nhỏ, mọc đứng, cao 2-3m, mang cành có gai. Lá mọc so le, có cuống hình trứng rộng, thường có thùy nông (ít khi nguyên), dài 18-25cm và rộng tới 18cm; cuống lá có gai, dài 3-10cm; phiến lá có lông mềm hình sao, gân giữa có gai. Cụm hoa xim ở kẽ lá. Hoa có cuống mang đài hoa 5 thùy có tuyến, có gai dài 3-5mm; tràng 5 thùy trắng, hình bánh xe; 5 nhị dài 5-6mm. Quả mọng hình cầu, khi chín màu vàng đường kính 10-15mm. Cây mọc hoang ở vùng núi. Thu hái quanh năm, khi thu hái về rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô trong râm.
Theo y học cổ truyền, cà dại hoa trắng có vị cay, hơi mát, có ít độc; Có tác dụng hoạt huyết, tán ứ, tiêu thũng, giảm đau, trừ ho. Thường được dùng trị đau thắt lưng, đòn ngã tổn thương, đau dạ dày, đau răng, bế kinh, ho mạn tính,… Dưới đây là một số cách chữa bệnh đơn giản từ cà dại hoa trắng:
Làm dịu vết ong đốt: Lấy quả cà dại hoa trắng giã nát với lá lốt, vắt lấy nước bôi lên chỗ bị đốt.
Cà dại hoa trắng 1
 Cà dại hoa trắng.
Chữa nước ăn chân: Lá chè xanh và lá phèn đen mỗi thứ 20-30g, sắc lấy nước đặc, ngâm rửa chân trong 5-10 phút. Sau đó lấy quả cà dại hoa trắng và lá lốt, mỗi thứ 20g, giã nát, thêm ít nước, dùng bông thấm nước thuốc bôi vào những kẽ nứt nẻ.
Chữa đau răng (do sâu răng): Rễ cà dại hoa trắng, rễ cây chanh, vỏ cây lai, vỏ cây trẩu, mỗi vị 10g, sắc lấy nước đặc ngậm rồi nhổ đi.
Chú ý, người bị bệnh tăng nhãn áp không dùng. Nếu sử dụng dưới dạng thuốc sắc cần theo đúng chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ Đông y hoặc lương y có uy tín.
BS. Nguyễn Thị Nga

Một số tác dụng chữa bệnh của cây hẹ

Cây rau hẹ còn có tên gọi là cửu thái, khởi dương thảo... là cây thân thảo, có chiều cao khoảng 20-40 cm, giàu dược tính và có mùi thơm rất đặc trưng, không chỉ được dùng nhiều trong các món ăn…, mà còn là cây thuốc chữa được nhiều bệnh.
Cây rau hẹ rất dễ trồng và ít phải chăm sóc. Chỉ cần gieo hoặc trồng bằng cây con một lần, là có thể thu hoạch nhiều lứa, nhiều năm. Cây phát triển tốt quanh năm, vừa có thể làm rau ăn, vừa có thể dùng làm thuốc những khi cần thiết.
Theo Đông y, cây rau hẹ có tác dụng làm thuốc cụ thể, lá hẹ để sống có tính nhiệt, nấu chín thì ôn, vị cay; vào các kinh Can, Vị và Thận. Có tác dụng ôn trung, hành khí, tán ứ và giải độc. Thường dùng chữa ngực đau tức, nấc, ngã chấn thương,... Gốc rễ hẹ có tính ấm, vị cay, có tác dụng ôn trung, hành khí, tán ứ, thường dùng chữa ngực bụng đau tức do thực tích, đới hạ, các chứng ngứa,... Hạt hẹ có tính ấm, vị cay ngọt; vào các kinh Can và Thận. Có tác dụng bổ Can, Thận, tráng dương, cố tinh. Thường dùng làm thuốc chữa tiểu tiện nhiều lần, mộng tinh, di tinh, lưng gối yếu mềm.
Một số tác dụng chữa bệnh của cây hẹ 1
 Hẹ hấp mật ong có tác dụng chữa ho.
Một số tác dụng chữa bệnh của cây hẹ
Chữa cảm mạo, ho do lạnh: Lá hẹ 250g, gừng tươi 25g, cho thêm ít đường hấp chín, ăn cái, uống nước. Dùng liền 5 ngày.
Chữa nhức răng: Lấy một nắm hẹ (cả rễ), rửa sạch, giã nhuyễn đặt vào chỗ đau, đặt liên tục cho đến khi khỏi.
Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Hàng ngày sử dụng từ 100-200g rau hẹ, nấu cháo, nấu canh hoặc xào ăn. Không dùng muối hoặc chỉ dùng một chút muối khi chế biến món ăn. 10 ngày một liệu trình. Hoặc dùng củ rễ hẹ 150g, thịt sò 100g, nấu canh ăn thường xuyên. Có tác dụng tốt đối với bệnh đái tháo đường đã mắc lâu ngày, cơ thể đã suy nhược.
Nhuận tràng, trị táo bón: Hạt hẹ rang vàng, giã nhỏ, mỗi lần uống 5g. Hòa nước sôi uống ngày 3 lần, dùng liền 10 ngày.
Chữa chứng đái dầm ở trẻ em: Nấu cháo gạo 50g, dùng 25g rễ hẹ vắt lấy nước cho vào cháo đang sôi, thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.
Chữa ho trẻ em do cảm lạnh: Lấy lá hẹ xắt nhỏ trộn với đường phèn hoặc mật ong vào cùng một chén, sau đưa chén vào nồi cơm hấp chín. Cho trẻ uống dần trong ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê. Dùng liền 5 ngày.
Giúp bổ mắt: Rau hẹ 150g, gan dê 150g, gan dê thái mỏng, ướp gia vị vừa xào với rau hẹ. Khi xào dùng ngọn lửa mạnh, lúc chín cho gia vị vừa đủ, ăn với cơm, cách ngày ăn một lần, 10 ngày một liệu trình.
Hỗ trợ điều trị xuất tinh sớm: Rau hẹ 200g, tôm nõn 200g, xào ăn với cơm.
Chữa đau lưng, gối mỏi, ăn uống kém: Hạt hẹ 20g, gạo 100g, nấu cháo ăn nóng ngày 2 lần. 10 ngày một liệu trình.
Lương y Nguyễn Hữu

Tử uyển - Vị thuốc nhuận phế, hóa đờm

Tử uyển (Aster tataricú L.J), tên khác là thanh uyển, dã ngưu bàng, là một cây thảo, sống lâu năm, cao 1-1,2m. Bộ phận dùng làm thuốc của tử uyển là rễ, thu hái quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu, đào về rửa sạch, phơi hoặc sấy khô.
Dược liệu tử uyển có vị đắng, cay, tính ôn, không độc có tác dụng nhuận phế, hóa đờm, chỉ phái, hạ khí, chữa ho có đờm, hen suyễn, viêm họng, viêm phế quản cấp và mạn tính. Liều dùng hằng ngày 6-12g dưới dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác theo những phương thức sau:
Chữa ho, hen có đờm khò khè: tử uyển 12g, bách bộ 12g, cát cánh 8g, mạch môn 8g, kinh giới 8g, trần bì 6g, cam thảo dây 6g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày.
Chữa ho lâu ngày, viêm phế quản mạn tính: tử uyển 10g, khoản đông hoa 10g, thổ bối mẫu 10g, hạnh nhân 10g, cát cánh 10g, cam thảo 3g. Sắc uống ngày 1 thang.
Tử uyển - Vị thuốc nhuận phế, hóa đờm 1
 Tử uyển.
Chữa ho gà ở giai đoạn hồi phục: tử uyển 8g, bách bộ 8g, rễ qua lâu 16g, sa sâm 12g, mạch môn 12g. Sắc uống trong ngày.
Chữa lao phổi: tử uyển 12g, bạch truật 12g, đảng sâm 12g, cỏ nhọ nồi 12g, thổ phục linh 8g, bách hợp 8g, cam thảo 6g, ngũ vị tử 6g, thổ bối mẫu 6g, sắc uống ngày 1 thang.
Chữa hen phế quản: tử uyển 12g, tế tân 12g, khoản đông hoa 12g, đại táo 12g, ma hoàng 10g, ngũ vị tử 10g, bán hạ (chế) 8g, xạ can 6g, gừng sống 4g. Sắc uống trong ngày.
Chữa suy nhược cơ thể do phế hư: tử uyển 12g, ngũ vị tử, tang bạch bì, thục địa, đản sâm, hoàng kỳ mỗi vị 10g. Sắc uống trong ngày.
Ngoài ra, Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) còn dùng tử uyển để chữa kinh nguyệt không đều với bài thuốc gồm: tử uyển, hồng hoa, nga truật, quế chi (bỏ vỏ thô), hương phụ (sao giấm), lượng bằng nhau, phơi khô tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 2 lần mỗi lần 8g với rượu.
DS. Đỗ Huy Bích

Cây rau hẹ

Cây rau hẹ còn có tên gọi là cửu thái, khởi dương thảo... là cây thân thảo, có chiều cao khoảng 20-40 cm, giàu dược tính và có mùi thơm rất đặc trưng, không chỉ được dùng nhiều trong các món ăn…, mà còn là cây thuốc chữa được nhiều bệnh.
Cây rau hẹ rất dễ trồng và ít phải chăm sóc. Chỉ cần gieo hoặc trồng bằng cây con một lần, là có thể thu hoạch nhiều lứa, nhiều năm. Cây phát triển tốt quanh năm, vừa có thể làm rau ăn, vừa có thể dùng làm thuốc những khi cần thiết.
Theo Đông y, cây rau hẹ có tác dụng làm thuốc cụ thể, lá hẹ để sống có tính nhiệt, nấu chín thì ôn, vị cay; vào các kinh Can, Vị và Thận. Có tác dụng ôn trung, hành khí, tán ứ và giải độc. Thường dùng chữa ngực đau tức, nấc, ngã chấn thương,... Gốc rễ hẹ có tính ấm, vị cay, có tác dụng ôn trung, hành khí, tán ứ, thường dùng chữa ngực bụng đau tức do thực tích, đới hạ, các chứng ngứa,... Hạt hẹ có tính ấm, vị cay ngọt; vào các kinh Can và Thận. Có tác dụng bổ Can, Thận, tráng dương, cố tinh. Thường dùng làm thuốc chữa tiểu tiện nhiều lần, mộng tinh, di tinh, lưng gối yếu mềm.
Cây rau hẹ 1
 Hẹ hấp mật ong có tác dụng chữa ho.
Một số tác dụng chữa bệnh của cây hẹ
Chữa cảm mạo, ho do lạnh: Lá hẹ 250g, gừng tươi 25g, cho thêm ít đường hấp chín, ăn cái, uống nước. Dùng liền 5 ngày.
Chữa nhức răng: Lấy một nắm hẹ (cả rễ), rửa sạch, giã nhuyễn đặt vào chỗ đau, đặt liên tục cho đến khi khỏi.
Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Hàng ngày sử dụng từ 100-200g rau hẹ, nấu cháo, nấu canh hoặc xào ăn. Không dùng muối hoặc chỉ dùng một chút muối khi chế biến món ăn. 10 ngày một liệu trình. Hoặc dùng củ rễ hẹ 150g, thịt sò 100g, nấu canh ăn thường xuyên. Có tác dụng tốt đối với bệnh đái tháo đường đã mắc lâu ngày, cơ thể đã suy nhược.
Nhuận tràng, trị táo bón: Hạt hẹ rang vàng, giã nhỏ, mỗi lần uống 5g. Hòa nước sôi uống ngày 3 lần, dùng liền 10 ngày.
Chữa chứng đái dầm ở trẻ em: Nấu cháo gạo 50g, dùng 25g rễ hẹ vắt lấy nước cho vào cháo đang sôi, thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.
Chữa ho trẻ em do cảm lạnh: Lấy lá hẹ xắt nhỏ trộn với đường phèn hoặc mật ong vào cùng một chén, sau đưa chén vào nồi cơm hấp chín. Cho trẻ uống dần trong ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê. Dùng liền 5 ngày.
Giúp bổ mắt: Rau hẹ 150g, gan dê 150g, gan dê thái mỏng, ướp gia vị vừa xào với rau hẹ. Khi xào dùng ngọn lửa mạnh, lúc chín cho gia vị vừa đủ, ăn với cơm, cách ngày ăn một lần, 10 ngày một liệu trình.
Hỗ trợ điều trị xuất tinh sớm: Rau hẹ 200g, tôm nõn 200g, xào ăn với cơm.
Chữa đau lưng, gối mỏi, ăn uống kém: Hạt hẹ 20g, gạo 100g, nấu cháo ăn nóng ngày 2 lần. 10 ngày một liệu trình.
Lương y Nguyễn Hữu

Nghệ đen chữa bệnh

Nghệ đen còn có nhiều tên gọi khác nhau như nghệ tím, ngải tím, ngải xanh, nghệ đăm. Trong y học cổ truyền, nghệ đen có tên thuốc là nga truật, là thân rễ phơi khô của cây nghệ đen.
Nghệ đen là loại cây thảo cao từ 1 - 1,5m, thân rễ hình nón với nhiều nhánh phụ thon như hình quả trứng tỏa xung quanh như hình chân vịt. Lá có bẹ to ôm vào chân cây ở phía dưới, có đốm tía đỏ ở gần giữa mặt trên, lá dài 30 - 60cm, rộng 7 - 8cm. Cuống lá ngắn hoặc không có. Hoa màu vàng, đài có thùy hình mác tù, dài 15mm, thùy giữa nhọn. Cụm hoa tập trung thành bông hình trụ, mọc lên từ thân rễ. Lá bắc phía dưới hình quả trứng hay hình mác tù, màu xanh lục nhạt, đầu lá màu đỏ, không mang hoa. Quả hình trứng, ba cạnh, nhẵn hạt thuôn, áo hạt trắng. Về hình dáng, nghệ đen rất giống nghệ vàng nhưng có màu tím đậm.
Nghệ đen chữa bệnh 1
Cây mọc hoang ở vùng rừng núi, ven suối, vùng xốp ẩm và được trồng ở nhiều nơi để làm thuốc. Bộ phận dùng là thân, rễ tươi hoặc khô khi thu củ, vỏ ngoài vàng nâu, trong xanh thẫm, thu hái về cắt bỏ rễ con, luộc chín. Thu hái nghệ đen vào đầu tháng 11 - 12.
Theo y học cổ truyền, nghệ đen có vị cay, đắng, tính ôn, có tác dụng hành khí, phá huyết, thông kinh, tiêu tích, hóa thực… Thường dùng chữa đau bụng, ăn không tiêu, đầy hơi, bế kinh…
Một số đơn thuốc có sử dụng nghệ đen
Chữa chứng huyết ứ, kinh nguyệt không thông, bế kinh, máu ra kéo dài, đen, đông thành khối nhỏ, kèm theo đau bụng trước khi thấy kinh: Nghệ đen 15g, ích mẫu 15g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 5-7 ngày trước kỳ kinh.
Nghệ đen chữa bệnh 2
 Nghệ đen có tác dụng hành khí, phá huyết, thông kinh, tiêu tích, hóa thực...
Ăn không tiêu, bụng đầy trướng: Nghệ đen 25g, tim lợn 1 quả. Tim lợn làm sạch, thái miếng, nghệ đen thái lát, nấu chín, thêm gia vị. Ăn liên tục 5 - 7 ngày.
Chữa đau bụng kinh, sắc kinh xấu: Nghệ đen 20g, ích mẫu 16g, ngải cứu 8g. Sắc với 500ml nước, còn 200ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Uống 5-7 ngày trước kỳ kinh.
Bổ khí, dưỡng huyết: Nghệ đen, bạch chỉ, hồi hương, cam thảo, đương quy, thục địa, bạch thược, xuyên khung mỗi vị 40g. Tất cả các vị tán bột, hoàn thành viên. Ngày uống 8 - 12g. Thích hợp dùng cho các trường hợp suy nhược, tiêu hóa hấp thu kém, thể trạng xanh xao, thiếu máu,…
Lưu ý: Không dùng nghệ đen cho người khí huyết hư, phụ nữ có thai.
Bác sĩ Nguyễn Thị Nga

Cây hẹ - hành khí, kiện vị, giải độc

Cây hẹ còn có tên khác là cửu thái. Hẹ là loại rau gia vị được dùng nhiều trong các món ăn. Ngoài ra, người ta còn dùng hẹ để chữa nhiều bệnh. Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây.
Theo Đông y, hẹ vị cay, tính ôn; vào can, vị, thận. Có tác dụng ôn trung hành khí, kiện vị, tán ứ giải độc, bổ thận tráng dương. Dùng cho các trường hợp đau tức vùng ngực, nấc cụt, nôn thổ huyết, niệu huyết, trĩ xuất huyết, bệnh tiểu đường, dị ứng nổi ban, liệt dương di tinh. Theo kinh nghiệm dân gian, lá và thân hẹ chữa ho trẻ em, hen suyễn, giun kim, lỵ amíp, tiêu hóa kém. Hằng ngày có thể dùng 30 - 100g dưới dạng vắt ép lấy nước, xào nấu.
Chữa ho trẻ em: lá hẹ 15g, hoa đu đủ đực 15g, hạt chanh 20 hạt. Dùng tươi, giã nát, thêm 10 - 20ml nước và 1 thìa canh mật ong; hấp chín, ép lấy nước, chia uống 3 lần trong ngày. Dùng 3 - 4 ngày.
Hen suyễn nguy cấp: lá hẹ 50g, sắc với 200ml nước còn 50ml. Uống trong ngày.
Chữa giun kim, ra mồ hôi trộm ở trẻ em: lá hẹ 30g, ép lấy nước, thêm 10 - 20ml vào bã lá và ép gạn; hợp 2 nước ép, thêm mật ong đủ ngọt để uống. Có thể làm rau ăn trong ngày.
Cây hẹ - hành khí, kiện vị, giải độc 1
 Tôm xào hẹ, gừng tươi.
Nước ép hẹ gừng tươi sữa bò: nước ép hẹ 60g, sữa bò 200ml, nước ép gừng tươi 10 - 20ml. Trộn đều, hâm nóng cho uống. Dùng cho bệnh nhân nôn do trào ngược thực quản.
Nước sắc hẹ cam thảo: hẹ tươi 30g, cam thảo 15g. Hẹ rửa sạch để ráo, cắt đoạn; cam thảo thái lát mỏng. Hãm nước cho uống. Dùng cho bệnh nhân nổi ban, mề đay.
Bún (mỳ) xào hẹ: bún (mỳ) 150 - 200g, hẹ tươi 60 -100g, có thể thêm thịt nạc hoặc tôm nõn 50g, gừng tươi. Xào với dầu thực vật, ăn nóng. Dùng cho các trường hợp ho suyễn lâu có tính chất dị ứng.
Canh hẹ: rau hẹ 200 - 300g. Luộc hay nấu canh với ít muối. Ngày 1 lần; ăn liên tục 3 - 5 tháng. Trị tiêu khát.
Cháo hẹ: hẹ tươi 60g, gạo tẻ 100g. Nấu cháo gạo, khi cháo được cho hẹ vào, thêm muối vừa ăn. Dùng cho bệnh nhân đau bụng tiêu chảy, liệt dương di tinh.
Rau hẹ, hồ đào xào dầu vừng: rau hẹ 240g, hồ đào nhân 60g. Xào với dầu vừng, ngày ăn 1 lần, dùng trong 1 tháng. Dùng cho bệnh nhân đau lưng liệt dương.
Kiêng kỵ: Người bị sốt nóng, viêm nhiễm lở ngứa, đau mắt đỏ không dùng.
BS. Tiểu Lan

Táo mèo phòng chống tăng huyết áp

Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, táo mèo có tác dụng hạ huyết áp là thông qua cơ chế làm giãn mạch ngoại vi. Mặt khác, công dụng hạ mỡ máu, ức chế quá trình ngưng tập tiểu cầu, làm giãn động mạch vành, cải thiện sức co bóp cơ tim và an thần trấn tĩnh đều trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần lập lại cân bằng sinh lý và phòng chống tích cực các biến chứng do tình trạng tăng huyết áp gây ra.
Một số cách dùng cụ thể như sau:
Bài 1: Táo mèo 15g, hà diệp (lá sen) 20g. Hai thứ tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Hoạt huyết hóa ứ, thanh dẫn thông trệ, làm giãn mạch máu, dùng thích hợp cho người bị tăng huyết áp và béo phì có kèm theo đau đầu, hoa mắt, chóng mặt.
Táo mèo phòng chống tăng huyết áp 1
Bài 2: Táo mèo 10g, cúc hoa 10g, lá trà tươi 10g. Ba thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh nhiệt trừ đàm, bình can tiềm dương, dùng cho người bị tăng huyết áp, bệnh lý mạch vành và rối loạn lipit máu.
Bài 3: Táo mèo 24g, cúc hoa 15g, kim ngân hoa 15g, tang diệp (lá dâu) 12g. Tất cả sấy khô, tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Thanh can nhiệt, hoá ứ tích, dùng thích hợp cho những người bị tăng huyết áp thuộc thể can nhiệt ứ trở biểu hiện bằng các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, mất ngủ, dễ cáu giận, miệng khô họng khát, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ…
Bài 4: Táo mèo 50g, gạo tẻ 50g, đường phèn vừa đủ. Sơn tra bỏ hạt, thái phiến, đem nấu với gạo tẻ thành cháo, chế thêm đường phèn, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: Khứ ứ huyết, tiêu thực tích, dùng cho những người bị tăng huyết áp, rối loạn lipid máu.
Táo mèo phòng chống tăng huyết áp 2
 Táo mèo phối hợp với cúc hoa và lá trà tươi hãm uống tốt cho người bệnh tăng huyết áp, bệnh mạch vành và rối loạn lipit máu.
Bài 5: Táo mèo sao đen 12g, thảo quyết minh 12g, hoa cúc trắng 9g. Ba thứ sấy khô, tán vụn, hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Sơ phong, tán nhiệt, bình can, giáng áp, nhuận tràng thông tiện, dùng rất tốt cho những người bị tăng huyết áp có kèm theo táo bón kéo dài.
Bài 6: Táo mèo 16g, sinh đỗ trọng 16g, thảo quyết minh 16g, tiên ngọc mễ tu (râu ngô tươi) 62g, hoàng bá 6g, sinh đại hoàng 3g. Tất cả đem sắc với 6 bát nước, cô lại còn 3 bát, chia uống vài lần trong ngày. Công dụng: Bổ can thận, thanh can nhiệt, giáng áp, dùng thích hợp cho những người bị tăng huyết áp, béo phì.
Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn

Dùng chu sa, thần sa thế nào cho đúng?

Chu sa, thần sa hay còn gọi là châu sa, đơn sa (Cinnabaris) là một loại khoáng thạch có màu đỏ, có nguồn gốc ở Trung Quốc. Chu sa, thần sa đã được Ðông y sử dụng tới 2.000 năm nay để làm thuốc trấn kinh, an thần trong các bệnh co giật và mất ngủ. Sau đây là một số lưu ý khi dùng chu sa, thần sa chữa bệnh.
rong Đông y, chu sa, thần sa là một thành phần trong nhiều cổ phương nổi tiếng như: Ngưu hoàng trấn kinh tán, Ngưu hoàng thiên kim tán, Ngưu hoàng bào long hoàn, Bá tử dưỡng tâm hoàn, Tiểu nhi kinh phong tán... Về thực chất, chu sa và thần sa chỉ là một, đều là khoáng thạch có chứa sunfua thủy ngân và sunfua selen. Khác là chu sa thường ở thể bột đỏ, còn thần sa thường ở thể cục thành khối óng ánh, to nhỏ không đều nhau, có màu đỏ tối hay đỏ tươi, thể chất nặng song dễ vỡ, không mùi, vị nhạt.
Theo Đông y, chu sa, thần sa đều có vị ngọt, tính hơi hàn, có độc. Nhập vào kinh tâm, có công năng thanh tâm, trấn kinh, an thần, giải độc. Được dùng để trị các chứng hay bị hoảng hốt, mất ngủ, ngủ hay mê sảng, giật mình, trẻ con hay khóc đêm, bị co giật khi sốt cao... Trong sách cổ có quy định, chu sa, thần sa bao giờ cũng phải dùng sống một cách tuyệt đối, có nghĩa là không được qua lửa hoặc không được giã nghiền trực tiếp để sinh nhiệt. Vì nếu gia nhiệt sẽ làm cho các thành phần như sunfua thủy ngân (HgS) trong đó bị phân hủy thành thủy ngân nguyên tố (Hg) gây độc cho cơ thể, nhẹ thì có thể dẫn đến thâm lợi, sưng lợi...; nặng có thể nguy hiểm cho tính mạng. Do vậy, trước khi dùng cần được chế biến đúng phương pháp (thủy phi), sử dụng đúng liều lượng quy định.
Dùng chu sa, thần sa thế nào cho đúng? 1
 Khi chế biến và sử dụng chu sa cần đúng phương pháp nếu không sẽ gây độc cho cơ thể.
Cách chế biến thần sa, chu sa
Cách 1: Nếu dùng với số lượng ít, cho vài ba thang thuốc Đông y, có thể đem chu sa, thần sa, mài vào cái bát sứ đã chứa ít nước sạch, cho tan hết phần bột, làm nhiều lần, bỏ phần cặn, gạn hoặc dùng nam châm để hút các cặn sắt đi. Lấy phần bột mịn đỏ, hòa vào thuốc sắc đã để nguội mà uống, với liều 0,3 - 1,5g/ngày.
Cách 2: Nếu dùng với số lượng lớn hơn, chu sa, thần sa thường cho vào cối sứ hoặc lon sành, cho nước sạch vào rồi nghiền làm nhiều lần, mỗi lần gạn lấy phần nước có bột đỏ sang một dụng cụ khác như can, chậu sành..., để lắng vài giờ, gạn bỏ phần nước trong ở trên, thu lấy bột mịn màu đỏ. Có thể tinh chế vài lần như vậy. Sau đó cho ra mâm nhôm hay khay men... phơi trong bóng râm cho tới khô. Lấy phần bột mịn màu đỏ, bảo quản trong lọ thủy tinh sạch, nút kín, để nơi cao ráo, tránh ánh sáng.
Cách 3: Trong các xí nghiệp sản xuất thuốc Đông dược, khi cần sản xuất số lượng lớn thần sa, chu sa, phải xay nghiền trong các cối bằng đá, song nhất thiết phải luôn luôn xay nghiền cùng với nước sạch để làm nguội (do nhiệt sinh ra trong quá trình xay nghiền dễ tạo ra thủy ngân nguyên tố). Sau đó các quá trình tiếp theo cũng làm theo các cách trên.
Như vậy, cần hết sức lưu ý là không cho chu sa, thần sa vào sắc cùng với thang thuốc thảo mộc.
Chu sa, thần sa được dùng chữa bệnh
Chữa mất ngủ, hay giật mình, mê sảng, giấc ngủ không yên, trẻ con hay khóc đêm...: dùng riêng bột chu sa, thần sa, hòa thêm chút mật ong hay ít nước đường vào cho dễ uống.
Chữa tâm thần bất an, mất ngủ, tim loạn nhịp, di tinh: dùng tim lợn hấp chín, rồi chấm với bột chu sa, thần sa mà ăn.
Lưu ý: Nếu thần sa, chu sa là một trong nhiều vị của một thang thuốc thảo mộc khác, trước hết phải sắc các vị thuốc thảo mộc như bình thường. Gạn lấy nước sắc, để nguội, rồi cho bột chu sa, thần sa với lượng phù hợp vào, quấy đều, uống ngày 2 - 3 lần trước bữa ăn khoảng 1,5 giờ. Ngoài ra, trong sản xuất thuốc, nếu trong thành phần có chu sa, thần sa, có thể lấy chính loại bột này để bao phía ngoài của các viên thuốc hoàn.
Tóm lại, để tránh những hậu quả có thể xảy ra đối với người bệnh khi dùng chu sa, thần sa, thì cách chế biến, bào chế vị thuốc này cũng như liều dùng và cách dùng của vị thuốc, cần tuân thủ nghiêm ngặt theo các phương pháp và các quy định đã đề ra.
GS.TS. Phạm Xuân Sinh

Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

Cá mè bổ não, nhuận phế, ích tỳ vị

Cá mè thịt chắc, vị ngọt, béo nhưng không ngấy. Khéo léo chế biến, các bà nội trợ có thể nấu được những món ngon như cá mè kho tiêu, cá mè kho dưa cải, canh cá mè nấu chua... Thịt cá có nhiều protid; mỡ cá có nhiều acid béo không no; mật cá chứa sterol. Trong Đông y, cá mè còn gọi là liên ngư, bạch cước liên, phường ngư. Bộ phận dùng làm thuốc là thịt, mỡ và mật cá.
Cá mè vị ngọt, tính ấm, không độc, có tác dụng bổ não tủy, nhuận phế, ích tỳ vị. Trong sách thuốc cổ có ghi: Thịt cá mà trắng có tác dụng khai vị, hạ khí, điều hòa ngũ tạng, chống hư huyết mạch, bổ gan, sáng mắt. Dùng cho các trường hợp tỳ vị hư hàn, ăn kém, đau bụng, đầy bụng, da thô ráp, tróc da và da khô. Người cao tuổi dùng cá mè thường xuyên chống được đau đầu, giảm trí nhớ, ho đờm, hen suyễn.
Cá mè bổ não, nhuận phế, ích tỳ vị 1
Dùng cho người suy nhược, sốt, chán ăn: cá mè tươi 300g, khởi tử 30g. Cá mè làm sạch, bỏ đầu và xương, thái lát mỏng; nấu kỹ với khởi tử. Trước khi ăn có thể thêm giá đỗ xanh, gừng, rau mùi, rau cần, hành, muối, hồ tiêu; đun chín. Ăn trong ngày.
Dùng cho các trường hợp huyết hư sau đẻ và thiếu sữa: cá mè 1 con, hạt mướp 30g, nghệ vàng 10g. Nấu ở dạng canh, mỗi ngày 1 lần.
Dùng cho các trường hợp tỳ vị dương hư, hư hàn, ăn kém, chậm tiêu, đầy ợ hơi, sợ lạnh, ho suyễn, nôn ói: cá mè 1 con, gừng tươi 18 - 30g. Cá mè làm sạch; gừng tươi 1 củ, cạo vỏ, đập giập nhưng vẫn còn cả thân củ; thêm hồ tiêu, hành tươi, gia vị nấu thành canh cá. Ăn liên tục đợt 5 - 7 ngày.
Dùng cho bệnh nhân phù nề, tiểu tiện ít: cá mè 1 con, đậu đỏ hạt 30g. Cá mè làm sạch, cho vào nồi hầm nhừ với đậu đỏ, thêm gia vị thích hợp. Ăn một đợt trong 5 - 7 ngày.
Dùng cho các trường hợp đau đầu hoa mắt chóng mặt (huyễn vững), mỏi tay chân: đầu cá mè 1 chiếc, thiên ma 15g. Cho đầu cá, thiên ma, thêm muối gia vị và nước với số lượng thích hợp, hầm nhừ. Ăn một đợt 5 - 7 ngày.
Mỡ cá mè có nhiều ở phần bụng cá, rán lấy mỡ, dùng chữa bỏng da độ nhẹ.
Kiêng kỵ: Cá mè tính chất ôn nhiệt, ăn nhiều sinh nội nhiệt khát nước loét miệng; vì vậy các trường hợp dương thịnh, nội nhiệt táo bón, lở ngứa, mụn nhọt không nên ăn. Không nên ăn gỏi cá mè hoặc ăn cá chưa nấu chín do cá thường mang ấu trùng sán lá gan.
BS. Tiểu Lan

Rễ địa hoàng chữa tăng huyết áp

Địa hoàng thuộc họ hoa mõm chó, là một cây thảo có rễ củ mập, một cây thuốc quý trong y học cổ truyền. Rễ địa hoàng thu hái về, rửa nhanh, phân loại củ to, nhỏ để riêng, đem sấy từ từ đến khi củ mềm rồi phơi hay sấy nhanh đến khô. Loại củ to dùng ngay (dạng sống), tên thuốc là sinh địa. Dược liệu sau khi được chế biến có tên thuốc là thục địa.
Thục địa có vị ngọt, mùi thơm, có tác dụng tư âm, bổ thận, dưỡng huyết, làm đen râu tóc. Liều dùng hằng ngày từ 9 - 15g. Dùng riêng hoặc phối hợp với nhiều vị thuốc khác trong những trường hợp sau:
Chữa suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, tiêu chảy mạn tính ở người cao tuổi: thục địa 16g; sơn thù, hoài sơn mỗi vị 12g; trạch tả, đan bì, phục linh, phụ tử chế mỗi vị 8g; nhục quế 4g. Tất cả sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
Chữa hen phế quản: thục địa 16g; kỷ tử, phụ tử chế mỗi vị 12g; sơn thù, hoài sơn, phục linh mỗi vị 8g; cam thảo, nhục quế mỗi vị 6g. Sắc uống trong ngày.
Rễ địa hoàng chữa tăng huyết áp 1
 Cây và củ rễ địa hoàng.
Chữa tăng huyết áp: thục địa 16g, hoài sơn 12g; sơn thù, trạch tả, đan bì, phục linh, đương quy, bạch thược mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa chứng âm hư, tinh huyết suy kém, mỏi mệt, đau lưng, mỏi gối, khát nước, nước tiểu vàng, da hấp nóng, di mộng tinh: thục địa 150g; táo nhục, hoài sơn mỗi vị 95g; trạch tả, khiếm thực mỗi vị 70g; thạch hộc 60g; tỳ giải 50g. Thục địa chưng giã nát, cho vào mật ong, cô đặc. Các vị kia tán nhỏ. Tất cả làm thành viên, mỗi lần uống 16g, ngày 2 lần.
Rượu bổ thận, tăng cường chức năng sinh dục và khả năng thụ tinh của nam giới: thục địa 40g; ngài tằm đực khô 100g; dâm dương hoắc 60g; kim anh, ba kích mỗi vị 50g; ngưu tất, sơn thù mỗi vị 30g; khởi tử, lá hẹ mỗi vị 20g. Bào chế thành 2 lít rượu thuốc, có thêm đường kính.
Chữa viêm tai giữa mạn tính: thục địa, quy bản mỗi vị 16g; hoàng bá, tri mẫu mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang hoặc làm viên uống mỗi ngày 18g chia 3 lần (uống kéo dài).
Chữa viêm quanh răng (Lục vị hoàn gia giảm): thục địa, hoài sơn, ngọc trúc, thăng ma, bạch thược, kỷ tử mỗi vị 12g; sơn thù, tri mẫu, hoàng bá, trạch tả, đan bì, phục linh mỗi vị 8g. Sắc uống trong ngày.
Chữa di tinh: thục địa 16g; hoàng bá, tri mẫu, quy bản, kim anh, khiếm thực, liên nhục, tủy lợn mỗi vị 12g. Làm viên, mỗi ngày dùng 30g.
Chữa bế kinh, vô kinh: thục địa, đảng sâm mỗi vị 16g; bạch thược 12g; xuyên khung, đương quy, hoàng kỳ mỗi vị 8g. Sắc uống trong ngày. Hoặc thục địa, cỏ nhọ nồi mỗi vị 16g; kỷ tử, hà thủ ô, sa sâm, long nhãn, ích mẫu mỗi vị 12g. Sắc uống.
TTƯT.DSCKII. Đỗ Huy Bích

Thuốc từ dạ dày nhím

Nhím cũng có nhiều tên như dím, hào chư, cao chư, sơn chư hay loan chư, tên khoa học Hystrix hodgsoni. Là loại sống hoang dã ở vùng rừng núi nước ta. Thường được dân thổ cư săn bắt ăn thịt và làm thuốc. Thịt nhím nạc ngon và bổ dưỡng nên đã được thuần dưỡng ở nhiều vùng để cung cấp nguồn thịt cho ẩm thực.
Thông thường người ta hay sử dụng dạ dày nhím để làm thuốc trị bệnh đau dạ dày gọi với tên thuốc là "Hào trư đỗ" (Corium Hystrici) của loại nhím Hystixhodgsoni. Theo Đông y, dạ dày nhím có vị đắng ngọt, tính bình; song trong Bản thảo cương mục Lý Thời Trân nói vị ngọt, tính hàn không độc. Quy vào kinh vị và đại tràng. Có tác dụng lương huyết, mát máu, làm hết đau, trĩ lậu ra huyết. Được trị đau dạ dày, chứng lòi chứng trĩ dom chảy máu, di mộng tinh, nôn mửa, giải độc, lỵ ra máu... Liều dùng cho dạng sắc hay tán trung bình từ 6 - 16g/ngày. Ngoài ra, người ta còn lấy da nhím làm thuốc với tên thuốc là "Thích vị bì", còn thịt nhím có vị ngọt, tính lạnh có tác dụng bổ dưỡng, nhuận tràng. Lông nhím Hào trư mao thích có vị cay, tính ấm có công năng hành khí chỉ thống, giải độc, chữa viêm tai giữa. Mật nhím dùng để chữa đau lưng và xoa bóp khi bị chấn thương. Ruột già, gan, phổi và cả phân nhím còn dùng để trị phong nhiệt...
Thuốc từ dạ dày nhím 1
Xin giới thiệu một số món ăn bài thuốc trị liệu có sử dụng từ dạ dày nhím:
Trị chứng đau dạ dày: dạ dày nhím để nguyên cả thức ăn có trong (được nhím rừng là tốt nhất) phơi rồi sấy khô, thái nhỏ sao chín tán bột, mỗi lần uống 10g vào lúc đói bụng và chiêu với nước cơm. Có thể lấy bột dạ dày nhím trộn với mật ong và bột nghệ với lượng mỗi thứ như nhau uống càng tốt, uống trước khi ăn.
Trị lòi dom chảy máu: dạ dày nhím sao phồng, tán bột mịn. Hoa hòe 10g sắc lấy nước để chiêu với bột dạ dày nhím đã tán mỗi ngày 3 lần (chia liều từ 3 - 6g làm 3 phần mà uống). Cần kiêng những thứ cay, nóng như: ớt, hồ tiêu, gừng, tỏi, hành, rượu, không dùng chè đặc, cà phê, hút thuốc lá... Cần ăn những thứ nhuận tràng như chuối tiêu, đu đủ, rau lang, rau đay, rau mồng tơi...
Trị ngộ độc: dạ dày nhím 1 cái sấy khô, tán bột. Gạo nếp cẩm 100g rang vàng tán bột, sau trộn đều hai thứ bột, ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g.
Chữa thủy thũng, hoàng đản (kể cả khi có cổ trướng): đốt tồn tính dạ dày nhím, tán bột, mỗi lần uống 8g hòa với rượu uống.
BS. HOÀNG XUÂN ĐẠI

Cây củ mài

Cây củ mài thường mọc hoang ở các vùng rừng miền núi phía. Nhân dân thường đào củ mài về cạo sạch vỏ, luộc, xào hoặc nấu canh ăn. Ngày nay, do nhu cầu dược liệu  nên cây được trồng nhiều ở đồng bằng để làm thuốc.
Cây củ mài thuộc họ dây leo quấn, thân nhẵn, hơi có góc cạnh, màu đỏ hồng, thường mang những củ nhỏ ở nách lá (dái mài). Rễ củ đơn độc hoặc từng đôi, ăn sâu vào đất đến hàng mét, hơi phình ở phía gốc, vỏ ngoài có màu nâu xám, thịt mềm màu trắng. Lá mọc so le hay mọc đối, hình tim, cụm hoa đơn tính gồm các bông khúc khuỷu, màu vàng. Để làm thuốc, bà con đào củ vào mùa hè - thu khi cây đã lụi, mang về rửa sạch, gọt vỏ cho vào lò xông lưu huỳnh 2 ngày đêm, sau đó phơi sấy cho đến khô.
Theo y học cổ truyền, vị thuốc từ củ mài có tên là hoài sơn, vị ngọt, tính bình, có tác dụng bổ tỳ vị, ích tâm phế, bổ thận. Thường dùng làm thuốc bổ ngũ tạng, mạnh gân xương, chữa suy nhược cơ thể, bệnh đường ruột, tiêu chảy, lỵ, tiêu khát, thận suy, mỏi lưng, chóng mặt, hoa mắt, ra mồ hôi trộm…
Cây củ mài 1
 Cây củ mài và vị thuốc hoài sơn có tác dụng bổ tỳ vị.
Một số bài thuốc bổ thường dùng
Chữa suy nhược cơ thể sau rối loạn tiêu hóa kéo dài: Củ mài 12g, biển đậu 12g, ý dĩ 12g, vỏ quýt 6g, hạt sen 12g, bố chính sâm 16g, bạch truật 12g, hạt cau 10g, nam mộc hương 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia làm 2 lần. Dùng 7-10 ngày.
Ăn uống kém, khó tiêu do tỳ vị hư nhược: Củ mài 100g, xuyên tiêu 30g, đường trắng 30g, khiếm thực 100g, gạo nếp 1.000g. Gạo nếp ngâm một đêm, vo sạch, để khô, rang chín, tán bột. Củ mài, khiếm thực, xuyên tiêu đều sao qua, tán bột. Trộn đều hai thứ bột với nhau để sẵn. Mỗi lần ăn, lấy 30 - 60g pha với nước sôi và một ít đường trắng.
Trẻ em suy dinh dưỡng: Củ mài 20g, biển đậu 10g, lòng đỏ trứng gà 1 cái, đường trắng 20g, gạo 50g. Củ mài sấy khô. Gạo, biển đậu đều xay thành bột. Trứng gà luộc bóc lấy lòng đỏ, cho vào bột gạo dầm nát trộn đều. Tất cả cho vào nồi thêm 200ml nước đun trên lửa nhỏ. Khi cháo chín cho đường quấy đều, cháo sôi lại là được. Cho trẻ ăn ngày 1 lần, ăn liền 15 ngày.
Bồi bổ sức khỏe: Củ mài 50g, khoai sọ 200g, gạo tẻ 50g, nấu cháo ăn trong ngày. Thường xuyên ăn món cháo này có tác dụng ích khí (tăng thể lực), bổ tỳ vị (tăng cường chức năng tiêu hóa), dùng chữa chứng đuối sức, mệt mỏi, kém ăn, miệng khát, hay phiền táo.
Để bài thuốc đạt hiệu quả cao, khi sử dụng cần đến cơ sở y tế có uy tín, được cấp phép để tư vấn và hướng dẫn. Nhất là hiện nay trên thị trường có nhiều dược liệu trôi nổi, không đạt tiêu chuẩn nếu tự mua sẽ dùng nhầm, nguy hiểm đến tính mạng.
Bác sĩ Nguyễn Thúy Anh

Cây qua lâu và vị thuốc thiên hoa phấn

Cây qua lâu còn có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua, dây bạc bát, người Tày gọi là thau ca. Qua lâu thuộc loại dây leo, có rễ củ thuôn dài như củ sắn. Lá giống lá gấc. Hoa đơn tính màu trắng. Quả hình cầu, màu lục có sọc trắng, khi chín có màu đỏ.
Thiên hoa phấn là tên thuốc của rễ cây qua lâu. Rễ qua lâu được thu hoạch vào mùa thu - đông, tốt nhất là sau khi thu hái quả được ít ngày. Rễ đào về, cạo bỏ vỏ ngoài, rửa sạch, cắt thành từng đoạn, rễ nhỏ để nguyên, rễ to bổ dọc, phơi hay sấy khô,
Theo y học cổ truyền, thiên hoa phấn có vị ngọt, chua, tính hàn, có công dụng thanh phế nhiệt, nhuận phế hóa đờm, sinh tân, giải độc,… Thường dùng chữa sốt nóng, miệng khô khát, lở ngứa, viêm tấy,…
Cây qua lâu và vị thuốc thiên hoa phấn 1
 Vị thuốc thiên hoa phấn.
Một số đơn thuốc sử dụng thiên hoa phấn
Chữa sốt nóng do viêm họng, miệng khô khát: Thiên hoa phấn 8g, rễ cây ké lớn đầu 8g, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống 1 lần trong ngày.
Chữa viêm amidan mạn: Thiên hoa phấn 8g, sinh địa 16g, hoài sơn, huyền sâm, ngưu tất, mỗi vị 12g; sơn thù, trạch tả, đan bì, phục linh, tri mẫu, địa cốt bì, mỗi vị 8g, xạ can 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng 5-7 ngày.
Cây qua lâu và vị thuốc thiên hoa phấn 2
 Cây qua lâu.
Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Thiên hoa phấn 8g, thục địa, hoài sơn, mỗi vị 20g; đơn bì, kỷ tử, thạch hộc, mỗi vị 12g; sơn thù, sa nhân mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 ngày là 1 liệu trình.
Hỗ trợ điều trị thấp khớp: Thiên hoa phấn, thổ phục linh, cốt toái bổ, kê huyết đằng, thạch cao, đơn sâm, sinh địa, rau má, uy linh tiên, hy thiêm, khương hoạt, độc hoạt, mỗi vị 12g, bạch chỉ 8g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 ngày là 1 liệu trình.
Phụ nữ mới sinh sữa không xuống: Thiên hoa phấn đốt tồn tính, tán nhỏ, ngày uống 16-20g đến khi sữa xuống.
Chữa ho do nhiệt: Thiên hoa phấn 30g, gạo tẻ 100g. Cách làm: Sắc thiên hoa phấn, bỏ bã lấy nước, cho gạo vào nước thuốc nấu cháo ăn trong ngày, có tác dụng thanh phế, chỉ khát, sinh tân dịch,… chữa ho do nhiệt hiệu quả.
Lưu ý: Những người tỳ vị hư yếu, tiêu chảy, phụ nữ có thai không dùng thiên hoa phấn.
Bác sĩ Nguyễn Thị Nga

Chữa viêm họng do lạnh với rau bô binh

Rau bô binh còn có tên gọi là tử tô hoang, tiểu quỷ châm, cương hoa thảo, đơn kim, đơn buốt, cúc áo,... là cây thảo mọc hoang, thường thấy ở ven đường, bờ ruộng, bãi hoang quanh nhà. Thân và cành đều có những rãnh chạy dọc, có lông. Lá mọc đối, cuống dài, lá chét hình mác, phía đáy hơi tròn, cuống ngắn, mép lá chét có răng cưa to thô. Cụm hoa hình đầu, màu vàng, mọc đơn độc hay từng đôi một ở nách lá hay đầu cành. Quả bế hình thoi, 3 cạnh, không đều, dài 1cm, trên có rãnh chạy dọc. Theo y học cổ truyền, rau bô binh có vị ngọt nhạt, tính bình. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tán ứ, tiêu thũng. Dùng chữa cảm, cúm, họng sưng đau,  viêm ruột,  trẻ nhỏ cam tích, chấn thương, mẩn ngứa, lở loét...
Chữa viêm họng do lạnh với rau bô binh 1Rau bô binh.
Một số bài thuốc thường dùng:
Chữa đau lưng do làm gắng sức: Rau bô binh 150-180g, rửa sạch sắc lấy nước, thêm 250g đại táo, đường đỏ và chút rượu trắng, nấu nhỏ lửa cho đến khi táo chín nhừ; Chia 4-5 lần uống trong 2 ngày, uống liền 7-10 ngày.
Chữa mẩn ngứa do dị ứng thời tiết: Rau bô binh 100-200g, nấu với 4-5 lít nước tắm, đồng thời lấy bã xát kỹ lên vết mẩn. Thường chỉ dùng 1-2 lần là có kết quả.
Chữa chấn thương phần mềm nhẹ, tụ máu đau nhức: Rau bô binh cả lá và hoa, lá cây đại, mỗi vị 10-15g, giã nát, băng đắp vào chỗ đau, ngày 1-3 lần.
Chữa đau răng, sâu răng: Rau bô binh cả hoa và lá, rửa sạch cho vào ít muối, giã nhỏ đặt vào chỗ đau. Hoặc lấy rau bô binh 50g, rửa sạch, ngâm với 250ml rượu trắng (theo tỷ lệ 1/5). Trường hợp bị đau răng, ngậm trong miệng một lúc rồi nhổ đi.
Chữa viêm họng do lạnh: Rau bô binh cả hoa và lá, kim ngân hoa, sài đất, lá húng chanh, cam thảo đất, mỗi thứ 10-15g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 lần. Dùng trong 5-7 ngày.
Chữa đau nhức do phong thấp: Rau bô binh 30-60g, rửa sạch sắc nước uống, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng 10-15 ngày.
Chữa trẻ nhỏ cam tích: Rau bô binh 15g, gan lợn 30-60g. Rửa sạch lá rau bô binh rồi cho lá xuống đáy nồi, đổ ngập nước, đặt gan lên phía trên hấp chín, ngày chia 2 lần, ăn liền 5-7 ngày.
Cần phân biệt rau bô binh với một cây khác có tên là đơn buốt hay đơn kim hay quỷ trâm thảo (Bidens bipinnata L., cùng họ cúc) cũng mọc hoang khắp nơi. Cây đơn buốt chỉ khác cây rau bô binh ở chỗ số lá kép nhiều hơn 3, cụm hoa  hình đầu, màu vàng.
BS. Nguyễn Thị Hương

Trai sông - Món ăn, bài thuốc

Trai sông còn gọi trai nước ngọt, là loại thực phẩm rất quen thuộc trong bữa ăn của người Việt. Trai thường sống ở sông ngòi, đầm, ao, hồ, sông, suối... ở vùng đồng bằng, trung du hay miền núi nước ta.  Thịt trai sông giàu đạm, can xi, phốt pho, một số vitamin như B1, B2, PP, C và đặc biệt là có rất nhiều kẽm. Ngoài làm thực phẩm, trai sông còn có nhiều tác dụng chữa bệnh.
Theo Đông y, trai sông vị ngọt mặn, tính hàn. Công năng chủ trị: Tư âm lợi thủy, hóa đàm nhuyễn kiên tán kết. Dùng cho các trường hợp âm hư, sốt nóng (lao phổi, đái tháo đường), ho khan, mất ngủ, đau mỏi thắt lưng, phù nề, tiểu ít, bạch đới, huyết trắng, viêm sưng hạch, u tuyến giáp, vàng da.
Trai sông - Món ăn, bài thuốc 1Cháo trai có tác dụng chữa một số bệnh ở người cao tuổi như tăng huyết áp, u xơ tiền liệt tuyến...
Một số món ăn, bài thuốc từ trai
Canh trai rau hẹ: Trai sông 150g, rau hẹ 60 - 120g, thêm nước, gia vị nấu canh ăn. Dùng cho các trường hợp lao phổi suy nhược, ho khan ít đờm, mồ hôi trộm (đạo hãn), bệnh đái tháo đường. 10 ngày là 1 liệu trình.
Trai luộc: Trai luộc chín, ăn với ớt tiêu gia vị hằng ngày có tác dụng bổ âm, thanh nhiệt, lợi tiểu, tán kết. Dùng hỗ trợ điều trị cho các trường hợp vàng da phù nề, sưng hạch, bướu cổ, khí hư, huyết trắng, bệnh đái tháo đường. Dùng liên tục 3 - 5 ngày.
Canh trai cà rốt đậu đỏ: Trai 200g, xuyên khung 15g, cà rốt 100g, đậu đỏ 100g. Thêm nước, gia vị, nấu canh, vớt bỏ bã xuyên khung, thêm mắm, hành, bột ngọt, chia vài lần ăn trong ngày, liên tục 5 - 7 ngày. Dùng cho các trường hợp suy nhược cơ thể, sợ lạnh, sợ gió, tay chân lạnh.
Cháo trai: Trai sông 200 - 300g, gạo 100g. Trai ngâm nước vo gạo nửa ngày đến 1 ngày, rửa sạch, luộc chín và giữ nước luộc. Thịt trai nặn hết sạn đen trong bụng, rửa sạch, thái thành miếng nhỏ, trộn gia vị, để 15 - 20 phút; Phi hành mỡ và cho thịt trai vào đảo đều; Để riêng. Gạn lấy nước luộc trai, cho gạo vào nấu thành cháo; Giữ nhỏ lửa, đảo đều để cháo không bén và đặc sệt; Cho thịt trai xào vào, thêm 1 - 2 củ hành, vài lát gừng thái chỉ, nêm gia vị cho vừa miệng. Khi ăn thêm chút bột tiêu, ớt bột, rau răm thái nhỏ. Chữa một số bệnh thường gặp ở người cao tuổi như tăng huyết áp, u xơ tiền liệt tuyến, đái tháo đường… và là món đặc sản trong mùa thu.
Ở người bệnh mỡ máu cao gây hoa mắt chóng mặt, nhức đầu thì khi nấu cháo nên cho thêm mộc nhĩ, nấm hương - hai loại thực phẩm có tác dụng hạ mỡ máu, thông huyết mạch.
Với người bị u xơ tiền liệt tuyến có các biểu hiện đi tiểu lắt nhắt, nước tiểu không thành tia mạnh, cháo trai có tác dụng thông tiểu tiện. Món cháo trai cũng rất thích hợp với người già bị u xơ tiền liệt tuyến. Với nam giới trung niên hoặc cao tuổi bị yếu sinh lý thì đây còn là món ăn có tác dụng tốt cho việc phòng trung. Người mắc bệnh đái tháo đường dùng món cháo trai cũng rất tốt, nhưng khi nấu cháo có thể thay gạo tẻ bằng bột củ mài - một dược thảo có tác dụng tốt cho bệnh đái tháo đường.
Bác sĩ  Thanh Lan

Thịt ba ba dưỡng âm, lương huyết

Theo y học cổ truyền, thịt ba ba có vị ngọt, tính bình, công dụng dưỡng âm, lương huyết, bổ hư nhuyễn kiên,… thích hợp làm món ăn bồi bổ cho người tạng nhiệt, nóng trong, mồ hôi ra nhiều; người già; người bệnh mạn tính,…
Một số món ăn chữa bệnh từ thịt ba ba
Hỗ trợ điều trị viêm thận mạn tính: Thịt ba ba 500g, tỏi 50g, một ít đường trắng và một chút rượu trắng. Cho tất cả vào nồi, thêm nước xâm xấp, hấp chín thịt ăn trong ngày. Ăn liền 3-4 ngày.
Trị đau nhức xương, người nóng hâm hấp: Lấy 1 con ba ba khoảng 1kg, làm sạch, bỏ nội tạng; địa cốt bì 25g; sinh địa 25g; mẫu đơn bì 15g. Tất cả cho vào nồi, hầm chín, nêm gia vị, ăn trong ngày. Ăn vài ngày.
Thịt ba ba dưỡng âm, lương huyết 1Thịt ba ba thích hợp với người tạng nhiệt, người bệnh mạn tính...
Người già thận hư, đau lưng: Ba ba 1 con khoảng 1kg, làm sạch, bỏ nội tạng; đỗ trọng 15g, cho vào nồi, thêm nước, đun nhỏ lửa hầm cho đến khi thịt ba ba chín nhừ. Khi chuẩn bị bắc ra cho thêm vài lát gừng, gia vị. Ăn 1 - 2 lần/tuần.
Phụ nữ kinh nguyệt không đều, ra huyết trắng: Ba ba 1 con khoảng 1kg; táo đỏ 20g; Nếu có  điều kiện thêm đông trùng hạ thảo (10g) càng tốt; Gia vị, một ít rượu trắng, vài lát gừng, tỏi, 1 lít nước. Tất cả cho vào nồi hấp chín ăn trong ngày. Ăn liền vài ngày.
Hỗ trợ điều trị viêm loét dạ dạ dày: Dùng 250g thịt ba ba, thái miếng nhỏ cho vào một cái dạ dày lợn đã làm sạch, hầm nhừ, chia ăn vài lần trong ngày. Ăn liền 5 - 7 ngày.
Hỗ trợ điều trị viêm họng, viêm phế quản mạn: Ba ba 1 con khoảng 1kg; bối mẫu, ngân sài hồ, hạnh nhân, mỗi vị 15g. Ba ba làm sạch, bỏ nội tạng, chặt miếng, cho vào nồi cùng các vị thuốc, thêm nước hầm nhừ. Khi ăn bỏ bã thuốc, nêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Món ăn này có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt, nhuận phế, chỉ khái, dùng rất thích hợp cho các trường hợp bị bệnh trên. 
Lưu ý: Người hư hàn không nên ăn nhiều thịt ba ba, nếu muốn dùng cần phối hợp với các vị có tính ấm nóng, tác dụng kích thích tiêu hóa. Phụ nữ có thai, người có tỳ vị hư hàn khi có biểu hiện sắc mặt nhợt nhạt, mệt mỏi, đầy bụng chậm tiêu, đại tiện lỏng nát, phân sống,… không nên dùng thịt ba ba.
Bác sĩ  Thúy An

Cây ba kích

Ba kích còn có tên khác là ba kích thiên, dây ruột gà. Là cây thảo, sống lâu năm, leo bằng thân quấn. Thân non mầu tím, có lông, phía sau nhẵn. Cành non, có cạnh.
Lá mọc đối, hình mác hoặc bầu dục, thuôn nhọn, cứng, dài 6 - 14cm, rộng 2,5 - 6cm, lúc non màu xanh lục, khi già màu trắng mốc. Lá kèm mỏng ôm sát thân. Hoa nhỏ, lúc non màu trắng, sau hơi vàng, tập trung thành tán ở đầu cành, dài 0,3 - 1,5cm, đài hoa hình chén hoặc hình ống gồm những lá đài nhỏ phát triển không đều. Tràng hoa dính liền ở phía dưới thành ống ngắn. Quả hình cầu, khi chín màu đỏ, mang đài còn lại ở đỉnh. Mùa hoa: tháng 5 - 6, mùa quả: tháng 7 - 10.
Ba kích mọc hoang, phân bố nhiều ở vùng đồi núi thấp ở miền núi và trung du ở các tỉnh phía Bắc và được trồng làm thuốc ở nhiều nơi.
Theo y học cổ truyền, ba kích có vị cay ngọt, tính ôn, vào kinh can thận. Tác dụng bổ thận tráng dương, cường cân tráng cốt, khu phong trừ thấp. Dùng cho các trường hợp liệt dương di tinh, bế kinh, đau lưng mỏi gối,...
Cây ba kích 1
Cây ba kích 2Dược liệu ba kích.

Một số đơn thuốc có sử dụng ba kích
Bổ thận, tráng dương: Ba kích 30g, thịt trai 300g, gừng tươi, gia vị, nước đủ dùng. Thịt trai rửa sạch, thái miếng. Ba kích rửa sạch. Cho tất cả vào nồi nước đã đun sôi, rồi vặn nhỏ lửa hầm khoảng 3 giờ, nêm gia vị là dùng được. Ăn cùng với cơm.
Hỗ trợ điều trị liệt dương: Ba kích đã bỏ lõi 40g, thục địa, nhục thung dung, ngũ vị tử 20g, nhân sâm 10g, 1 lít rượu trắng. Các vị thuốc trên rửa sạch, sấy khô rồi cho vào bình ngâm với rượu trong vòng 1 tuần là có thể dùng được. Uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 20ml.
Trị thận hư, đau lưng: Ba kích 16g, ngũ vị tử 6g, đảng sâm12g, thục địa 12g, nhục thung dung 12g, long cốt 12g, cốt toái bổ 12g. Tất cả các vị thuốc nghiền thành bột mịn, luyện với mật ong làm hoàn. Ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 12g, chiêu với nước.
Chữa đau lưng, chân tê, chân yếu, mỏi ở người già: Ba kích, xuyên tỳ giải, nhục thung dung, đỗ trọng, thỏ ty tử (lượng bằng nhau). Đem tán nhuyễn, trộn với mật làm viên hoàn. Mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần với nước ấm.
Chữa đau nhức xương khớp, đau lưng mỏi gối do thận hư, phong thấp: Ba kích 50g, dâm dương hoắc 50g, kê huyết đằng 50g, đường phèn 30g, rượu trắng 750ml. Ngâm trong 1 tuần là dùng được. Dùng uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 20ml.
Chú ý: Người âm hư hoả vượng, đại tiện táo kết không được dùng.
Bác sĩ  Thu Vân

Gừng tươi trị cảm lạnh

Củ gừng cho ta nhiều vị thuốc quý: sinh khương (gừng tươi), can khương (gừng khô), bào khương (vỏ củ gừng). Các chất trong gừng có tác dụng hạ nhiệt, giảm đau và giảm ho, chống viêm, chống co thắt, chống nôn, chống loét và tăng kiện vận trong đường tiêu hóa, ức chế thần kinh trung ương... và có hoạt tính miễn dịch.
Một số cách dùng gừng tươi làm thuốc:
Tán hàn, giải biểu: gừng tươi 12g, tô diệp 8g, phòng phong 12g. Sắc uống. Có thể kết hợp thuốc hạ nhiệt giảm đau Tây y (paracetamol, decolgen, efferalgan, tiffy...). Trị các chứng ngoại cảm phong hàn, đau đầu ngạt mũi.
Ấm tỳ, cầm nôn, chỉ tả:
Bài 1: tiểu bán hạ thang: gừng tươi 12g,bán hạ 12g. Sắc uống. Chữa chứng dạ dày lạnh, nôn oẹ.
Bài 2: gừng nướng 60g, giã  nát, rang, bọc bằng vải đắp lên rốn (phủ trên huyệt đan điền), đặt trong 1 - 2 giờ. Chữa tiêu chảy vì tỳ hàn, phân loãng không thối, sôi bụng đau thắt.
Tiêu nước, dịu ho: nước gừng tươi 160g, trà du 160g, mật ong 160g. Tất cả trộn đều. Ngày uống 2 lần (sáng và tối); mỗi lần 1 thìa canh, uống với nước. Trị chứng viêm phế quản mạn tính, tức ngực, hen, ho lâu không dứt, miệng không khát, nôn ra dãi nhớt màu trắng và tim hồi hộp.
Món ăn - bài thuốc có gừng tươi:
Mạch nha nước gừng: gừng tươi 30g, mạch nha 30g. Nấu lấy nước cho uống. Dùng cho trường hợp viêm khí phế quản do cảm lạnh.
Cháo gừng: gừng tươi 30g, gạo tẻ 150g. Gạo nấu cháo, gừng thái lát cho vào khi cháo, thêm đường trắng liều lượng thích hợp, khuấy đều, cho ăn nóng. Dùng cho trẻ em viêm khí phế quản do cảm lạnh, nôn ói đau bụng.
Ngũ thầm thang: gừng tươi 20g, kinh giới 20 - 30g, tử tô diệp 20 - 30g, trà 30g. Sắc lấy nước, thêm đường đỏ khuấy đều, cho uống. Dùng cho trường hợp ngoại cảm phong hàn (cảm cúm).
Nước gừng mật ong trộn bột hạnh nhân, đào nhân: Đào nhân 30g, hạnh nhân 15g. Nghiền nát đào, hạnh nhân, trộn với nước gừng mật ong liều lượng thích hợp cho ăn. Dùng cho trường hợp hen suyễn mạn tính.
Nước gừng cải củ: cải củ 250g (thái lát), gừng tươi 15 - 20g (thái lát), thêm ít đường đỏ. Sắc lấy nước cho uống. Dùng cho trường hợp viêm khí phế quản, viêm họng nhiều đờm.
Kiêng kỵ: Người phổi nhiệt, ho khan, dạ dày nhiệt, nôn oẹ không dùng.     
  TS. Nguyễn Đức Quang

Cá trắm phòng và chữa bệnh

Là loài cá nước ngọt, cá trắm có hai loại: Trắm trắng (hay còn gọi là trắm cỏ) và trắm đen. Cả hai loại đều được dùng làm thực phẩm, được chế biến thành nhiều món ăn ngon, đồng thời có tác dụng phòng và chữa bệnh
Theo y học cổ truyền, cá trắm trắng có tác dụng bổ tỳ vị và khí huyết, thích hợp với các chứng tỳ vị hư hàn, biếng ăn, gầy yếu, mệt mỏi, đuối sức. Cá trắm đen tính bình vị ngọt, thích hợp với các trường hợp tỳ vị hư nhược, mất sức, phù nề, viêm gan, thận, tăng cường miễn dịch,…
Cá trắm phòng và chữa bệnh 1Cá trắm trắng (trắm cỏ).
Một số món ăn, bài thuốc từ cá trắm:
Cảm nắng, viêm phế quản do nắng nóng, khô họng, ho nhiều, đờm vàng đặc, nước tiểu vàng đỏ: Cá trắm trắng (đã cạo vảy, rửa sạch, mổ bỏ ruột) 120g, mướp hương 500g, gừng tươi 3 lát. Cá trắm thái miếng ướp gừng và gia vị. Mướp hương thái miếng xào cho chín, nêm gia vị rồi cho cá vào đảo đều, bắc ra ăn nóng với cơm, ngày ăn 1 lần. Ăn liền 1 tuần.
Cảm lạnh, người yếu, đau đầu, ngạt mũi, đau mình mẩy: Thịt cá trắm trắng 150g, gừng tươi 3 lát, 1 chút rượu trắng, nước 1 bát con. Nấu sôi nước rồi cho cá, gừng và rượu vào, hầm khoảng 30 phút, nêm gia vị, ăn nóng, sau đó đắp chăn cho ra mồ hôi.
Suy nhược cơ thể sau ốm, khí huyết không đủ: Thịt cá trắm trắng 250g, hoàng kỳ 25g, đương quy 12g. Cho các vị vào nồi thêm nước vừa đủ để nấu canh, ăn cá, bỏ bã thuốc. Ngày ăn một lần. Ăn 3 - 4 lần.
Nâng cao sức đề kháng, phòng cúm: Thịt cá trắm đen 300g, cắt miếng, khía rãnh 2 bên thân cá, để lên đĩa hấp gần chín cho thêm vài lát gừng tươi, hành, rượu, ít mì chính chưng tiếp cho chín. Có thể ăn thường xuyên.
Cá trắm phòng và chữa bệnh 2Cá trắm đen.

Tỳ vị hư nhược, hay đau bụng lâm râm, chán ăn: Thịt cá trắm đen 500g, đẳng sâm 10g, thảo quả 1g, trần bì 1,5g, quế bì 1,5g, gừng khô 3g, hồ tiêu 5 hạt, muối vừa đủ. Nấu chín ăn thịt cá, uống canh, bỏ bã thuốc. Ngày ăn 1 lần. Ăn liền 1 tuần.
Chữa khí hư, mệt mỏi, ăn không ngon: Cá trắm đen 150g, lọc da, bỏ xương, băm nhỏ, đập một quả trứng gà vào, trộn đều, nêm gia vị, cho vào hầm cách thủy, chín mang ra ăn, ngày 1 lần, ăn trong 10 ngày liền
 Suy nhược cơ thể, mất sức, chóng mặt: Thịt cá trắm đen 300g, gạo 100g, nấu cháo ăn. Ăn liền 1 tuần.
Lưu ý: Không nên uống mật cá trắm để chữa bệnh vì có thể gây ngộ độc, nhẹ có thể gây đau bụng, chóng mặt, buồn nôn; nặng có thể dẫn đến suy gan, suy thận, thậm chí gây tử vong.
Bác sĩ Thu Vân

Thuốc từ cây vối

Cây vối có tên khoa học là Cleistocalyx operculatus (Roxb.), thuộc họ Sim - Myrtaceae. Từ lâu đời nhân dân ta đã biết sử dụng lá vối hay nụ vối với cách chế biến đơn giản tạo thành loại trà nấu hay hãm lấy nước uống thường ngày, đặc biệt giàu dược tính nên có công hiệu chữa trị nhiều bệnh.
Thuốc từ cây vối 1
 Lá vối nấu nước có tác dụng sát khuẩn ngoài da.
Các kết quả nghiên cứu về vối cho thấy, trong lá và nụ vối chứa tannin và acid triterpenic, khoáng chất và vitamin... khoảng 4% tinh dầu với mùi thơm dễ chịu. Đặc biệt chứa một số chất kháng sinh có khả năng diệt được nhiều loại vi khuẩn gây bệnh. Chính vì vậy mà lá vối tươi hay khô sắc đặc được coi như một loại thuốc sát khuẩn dùng trị liệu các bệnh ngoài da như ghẻ lở, mụn nhọt hoặc lấy lá vối tươi nấu lấy nước đặc để gội đầu chữa chốc lở rất hiệu nghiệm. Ngoài ra, lá vối chứa ít tanin, alcaloid (thuộc nhóm indolic) và một lượng tinh dầu (4%) bay hơi, thơm. Các bộ phận khác nhau của cây còn chứa các sterol, các chất béo, tanin catechic và gallic. Người ta cũng thường phối hợp lá vối với lá hoắc hương làm nước hãm uống lợi tiêu hóa. Nước sắc đậm đặc của lá cây dùng sát khuẩn để rửa mụn nhọt, lở loét, ghẻ. Lá, vỏ, thân, hoa vối còn dùng làm thuốc chữa đầy bụng, khó tiêu, tiêu chảy, mụn nhọt, viêm đại tràng mạn tính, lỵ trực trùng.
Ở Ấn Độ, rễ cây vối sắc đặc dạng sirô dùng đắp vào các khớp sưng đỏ; quả dùng ăn trị phong thấp. Hay tại Trung Quốc, các bộ phận của cây vối dùng trị cảm mạo, đau đầu phát sốt, lỵ trực khuẩn, viêm gan, bệnh mẩn ngứa, viêm tuyến sữa, ngứa ngáy ngoài da, bệnh nấm ở chân, vết thương...
Theo Đông y, cây vối vị đắng, chát, tính mát, có ít độc; tác dụng thanh nhiệt giải biểu, sát khuẩn, chỉ dương, tiêu trệ. Lá vối có tác dụng kiện tỳ, giúp ăn ngon, tiêu hóa tốt. Đông y còn dùng vỏ cây vối làm thuốc gọi là hậu phác; được sử dụng để trị đau bụng, đầy trướng ăn không tiêu, nôn mửa...
Dưới đây là một số phương thuốc trị liệu có dùng vối
Trị đau bụng đi ngoài: lá vối 3 cái, vỏ ổi rộp 8g, núm quả chuối tiêu 10g. Cùng thái nhỏ phơi khô sắc với 400ml nước, còn 100ml chia 2 lần uống trong ngày, dùng liền 2 - 3 ngày.
Chữa đầy bụng, không tiêu: vỏ thân cây vối 6 - 12g, sắc kỹ lấy nước đặc uống 2 lần trong ngày.
Hoặc nụ vối 10 - 15g, sắc lấy nước đặc uống 3 lần trong ngày.
Chữa lở ngứa, chốc đầu: lấy lá vối lượng vừa đủ nấu kỹ lấy nước để tắm, rửa nơi lở ngứa và gội đầu chữa chốc lở.
Giúp giảm mỡ máu: nụ vối 15 - 20g, hãm lấy nước uống thay trà trong ngày hay nấu thành nước đặc chia 3 lần uống trong ngày. Cần uống thường xuyên mới hiệu nghiệm.
Hỗ trợ trị tiểu đường: nụ vối 15 - 20g, sắc lấy nước chia 3 lần uống trong ngày hay hãm uống thay trà. Cần uống thường xuyên.           
    Bs. Hoàng Xuân Đại

Sơn đậu căn trị viêm amidan

Sơn đậu căn là rễ cây sơn đậu, hay còn gọi là cây quảng đậu, khổ đậu, hòe Bắc Bộ. Ở nước ta, đậu căn có nhiều ở một số tỉnh như Cao Bằng, Hà Giang, Quảng Ninh... Vào mùa thu, người ta thu hoạch rễ, rửa sạch, phơi sấy khô. Trước khi dùng, đem cắt đoạn 3 - 5cm, sao vàng. Về mặt hóa học, rễ sơn đậu chứa alcaloid, flavonoid...; matrin, oxymatrin, anagynin, methylcytisin. Ngoài ra còn có pterocarpin, sophoranon,...
Theo YHCT, sơn đậu căn có vị đắng, tính hàn, hơi có độc (khi dùng cần sao vàng), nhập vào các kinh tâm, phế, vị, đại tràng. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng, lợi hầu họng, dùng trị các bệnh sốt do viêm nhiễm đường hô hấp, viêm amidan, viêm họng, các bệnh mụn nhọt, đặc biệt nhọt độc, phù thũng, răng lợi sưng đau; còn dùng trị kiết lỵ, dùng ngoài trị côn trùng, rắn, rết cắn. Ngày dùng 4 - 12g rễ, hoặc 3 - 4,5g vỏ rễ dưới dạng bột hoặc nước sắc, thường phối hợp với một số các vị thuốc khác.
Sơn đậu căn trị viêm amidan 1
 Cây sơn đậu và vị thuốc sơn đậu căn.
Cách dùng sơn đậu căn làm thuốc
Trị viêm amidan cấp tính: sơn đậu căn, ngưu bàng tử, xạ can, kinh giới, mỗi vị 9g; kim ngân hoa 12g; phòng phong, cam thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống, ngày một thang chia 3 lần trước bữa ăn 1,5 giờ. Uống liền 1 - 2 tuần. Hoặc: sơn đậu căn 12g, sinh cam thảo 4g, sắc uống, ngày một thang. Hoặc: sơn đậu căn, kinh giới, bạc hà, cát cánh, mỗi vị 8g, sắc uống ngày một thang. Hoặc phối hợp sơn đậu căn với hạ khô thảo, huyền sâm, bối mẫu, mỗi vị 8g dưới dạng thuốc sắc, ngày một thang chia 3 lần uống trước bữa ăn 1,5 giờ.
Trị viêm amidan mạn tính: sơn đậu căn 15g, kim liên hoa 5g, sinh cam thảo 10g. Sắc uống, ngày 1 thang, 3 lần trước bữa ăn 1,5 giờ. Uống liền 3 - 4 tuần.
Trị viêm amidan, viêm họng sưng thũng, sốt cao, nuốt đau: sơn đậu căn, kim ngân hoa, mỗi vị 12g; hoàng liên 4g, hoàng bá 8g. Có thể thay hoàng liên bằng hoàng bá 12g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 - 3 lần, trước bữa ăn 1,5 giờ. Uống liền 1 - 2 tuần.
Trị viêm họng cấp, đau họng: sơn đậu căn 3g; nhân sâm, xạ can, mỗi vị 10g; cát cánh 7g, cam thảo 2g. Sắc uống, ngày một thang, chia 3 lần trước bữa ăn 1,5 giờ. Uống liền 1 - 2 tuần.
Trị sưng lợi răng: sơn đậu căn, bạch cương tằm, chi tử, mỗi vị 12g; bạc hà, kinh giới, mỗi vị 6g; huyền sâm, cát cánh, cam thảo dây, mỗi vị 8g. Sắc uống, ngày một thang, chia 3 lần trước bữa ăn 1,5 giờ. Uống liền 1 - 2 tuần. Có thể dùng sơn đậu căn dưới dạng thuốc bột: sơn đậu căn 60g, cam thảo 10g. Tất cả tán bột mịn, mỗi lần uống 3 - 6g, ngày 2 lần, trước bữa ăn 1,5 giờ. Uống liền nhiều ngày.
Ngoài ra, sơn đậu căn còn được dùng ngoài để trị mụn ngứa, côn trùng, rắn, rết cắn: sơn đậu căn tán bột mịn, thêm nước đun sôi để nguội thành hồ nhão, bôi vào vết thương. Hoặc sơn đậu căn 12g, hàn the 4g, băng phiến 0,8g. Tất cả tán bột mịn, thêm nước sôi để nguội tạo bột nhão, bôi vào vết thương.        
  GS.TS. Phạm Xuân Sinh

Tử hoa địa đinh giải độc, tiêu sưng

Tử hoa địa đinh còn gọi là cỏ tím, rau cẩm, lý đầu thảo... Bộ phận dùng làm thuốc là cả cây, thu hái quanh năm; dùng tươi hay phơi khô. Theo Đông y, tử hoa địa đinh vị đắng nhạt, hơi mát; vào kinh phế, tâm và can. Tác dụng làm mát máu, giải nhiệt, giải độc, tiêu sưng. Chữa viêm họng, viêm amidan, viêm quanh răng, quai bị, mụn mủ sưng lở, đau mắt, cảm mạo... Xin giới thiệu một số bài thuốc chữa bệnh có dùng vị tử hoa địa đinh.

Tử hoa địa đinh giải độc, tiêu sưng 1Tử hoa địa đinh.

Phòng và chữa cảm mạo, cúm và nhiễm khuẩn đường hô hấp: tử hoa địa đinh 30g, dã cúc hoa 30g. Sắc uống.
Chữa trẻ em viêm phổi, viêm phế quản cấp tính: trần bì 12g, hoàng cầm 8g, ma hoàng 3g, sinh thạch cao 16g, đình lịch tử (sắc bao) 8g, khổ hạnh nhân 8g, tử hoa địa đinh 12g. Sắc uống 3 lần trong ngày.
Chữa trẻ em viêm khoang miệng, viêm amidan: sạ can 12g, huyền sâm 12g, tử hoa địa đinh 12g, bồ công anh 12g, thanh đại (sắc bao) 4g. Sắc lấy100 - 150ml. Uống tùy theo tuổi, ngày chia 2 - 4 lần. 
Chữa nha chu viêm có mủ, sưng viêm lợi cấp tính: hoàng cầm 20g, huyền sâm 20g, tử hoa địa đinh 20g, sinh địa 15g, đại hoàng 8g, sinh thạch cao 40g. Sắc uống 2 - 3 lần trong ngày; uống thuốc trong  2 ngày.
Chữa quai bị: tử hoa địa đinh tươi 40g, phèn chua 4g. Giã nhỏ đắp.
Chữa viêm tắc mạch máu loại âm hư nhiệt độc: kim ngân hoa 40g, liên kiều 20g, thạch hộc 20g, thiên hoa phấn 20g, huyền sâm 20g , dã cúc hoa 40g, ngưu tất 10g, hoàng cầm 10g, đương quy 20g, thiên quỳ tử 20g, xích thược 20g, tử hoa địa đinh 20g, dạ minh sa 20g, sinh hoàng kỳ 20g, sinh cam thảo 20g. Sắc uống ngày 2 lần, uống thuốc sau bữa ăn 2 giờ.
Thanh nhiệt độc, giải uất kết ở hạ tiêu: tử hoa địa đinh 12g, bạch chỉ 12g, thấu cốt thảo 12g, sơn từ cô 12g, qua lâu nhân 12g, nhũ hương 4g, một dược 4g, nhị tiêm đầu 4g, trần bì 8g, thất diệp nhất chi hoa 12g, bạch hoa xà thiệt thảo 12g, thổ phục linh 12g, hạ khô thảo 8g, kim ngân hoa 12g, liên kiều 6g, bồ công anh 12g, lậu lô 8g, quất diệp 10g, cúc hoa 8g. Sắc uống ngày 1 thang.  
BS. Tiểu Lan

Tía tô trị cảm cúm

Thời tiết “mưa xuống, nắng lên” như hiện nay dễ khiến cho nhiều người bị cảm. lúc này, mọi người có thể nhớ đến tía tô, vị thuốc thích hợp trị chứng cảm mạo thường xảy trong những ngày oi bức bởi nó rất giàu dược tính, trị được nhiều bệnh.
Tía tô, còn gọi là tử tô, tô tử, tử tô ngạnh, é tía. Sách“Bản thảo cương mục”gọi tử tô là xích tô, cần phân (Dao), phằn cưa (Tày), hom tô (Thái), tên khoa học là Perilla frutescens (L.) Briton, thuộc họ Hoa môi (Lamaiaceae).
Đây là loại cây cỏ cao từ 0,5 - 1,0m, được trồng khắp nơi làm rau thơm gia vị ăn sống cùng các thức ăn khác như đậu phụ, rau trong món bún đậu mắm tôm chanh.
Bộ phận chế biến và sử dụng làm thuốc được thu hoạch về phơi khô trong râm mát (âm can), tử tô là cành non có mang lá của cây tía tô.
Đông y cho rằng tía tô có vị cay, mùi thơm, tính ấm. Lá có tác dụng làm ra mồ hôi, lợi tiêu hóa, trừ cảm lạnh. Thân cành lợi tiêu hóa. Hạt trừ hen, trị ho, làm long đàm.
Dưới đây là một số cách sử dụng tía tô trong trị một số bệnh chứng.
Chữa cảm các loại:
- Cảm lạnh: lá tía tô tươi một nắm, xắt nhỏ ăn với cháo nóng.
- Cảm cúm không có mồ hôi và ho tức ngực; nôn đầy: dùng 20g lá tươi giã nhỏ, chế thêm nước sôi, quấy đều gạn lấy nước nóng; hoặc dùng 10 lá xắt nhỏ trộn với cháo nóng, ăn rồi nằm nghỉ cho ra mồ hôi.
- Cảm mưa ướt gió lạnh, nóng rét, thân thể đau mỏi, nhức đầu sổ mũi, nôn đầy: dùng lá tía tô 15g, vỏ quít cũ, củ gấu (hương phụ), gừng sống, hành trắng cả cây đều 10g xắt uống lúc thuốc còn nóng.
Cháo giải cảm: lá tía tô xắt nhỏ 10g, hành sống giã nhỏ 5g, gừng tươi giã nhỏ ba lát, gạo tẻ 30g, muối vừa đủ. Nấu cháo nhừ, cho tía tô, hành, gừng, muối khuấy đều, ăn khi còn nóng. Ra mồ hôi sẽ nhẹ người.
Cảm cúm gai rét không ra mồ hôi: tía tô, lá chanh, bạc hà, lá sả, mỗi thứ một nắm nấu nước xông.
Cảm cúm có ho và nhức đầu: tía tô, kinh giới, lá lốt: một nắm, củ ném 50 củ, nghệ tươi, gừng tươi: 3 lát. Đổ 3 chén nước đun sôi kỹ, xông cho ra mồ hôi rồi uống thêm một chén nước nóng.
- Cảm cúm bốn mùa: tía tô, kinh giới: 20g, sắn dây, bạc hà: 10g, nghệ, gừng: 8g và sài hồ 15g. Trừ gừng là dùng tươi, còn lại đều khô. Đổ 3 chén nước sắc còn 1 chén uống khi nóng, uống xong đắp chăn nằm cho ra mồ hôi.
Cảm sốt khi mang thai: đang có mang thai mà cảm sốt, không nền dùng kháng sinh, tốt nhất là dùng tía tô, kinh giới, mỗi thứ 1 nắm, đổ 2 chén sắc còn 1 chén để nguội uống, tiếp đó ăn 1 chén cháo nóng có đập 1 quả trứng gà lấy lòng đỏ quậy đều.
Tía tô trị cảm cúm 1
 Tía tô vắt nước uống chữa dị ứng, mề đay

Trị ngộ độc cua, cá, dị ứng, nổi mẩn ngứa:
- Giã lá tía tô vắt lấy nước cho uống, bã thì xát vào chỗ ngứa.
- Lá tía tô 10g, gừng tươi 10g, cam thảo 4g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày khi thuốc đang nóng; hoặc lá tía tô khô 10g, sắc uống nóng.
Tức ngực muốn mửa: nhai sống một nắm lá tía tô với vài lát gừng.
Trị sưng vú: lá tía tô giã nát đắp lên vú, lại lấy một nắm nửa sắc uống.
Trị đau bụng động thai: cành và lá tía tô sắc đặc uống dần.
Có thai gần sinh bị phù thũng toàn thân: vỏ gừng tươi 40g, lá và cành tía tô 80g. Đổ 3 chén nước đun sôi kỹ (khi đun nhớ đậy nắp kín), xông cho ra mồ hôi và và uống thêm 1 chén nước nóng, bài thuốc này vừa có tác dụng an thai.
An thai: cành tía tô sắc uống thường xuyên có tác dụng an thai chữa hen suyễn và người già ho đàm mạn tính: dùng hạt tía tô và hạt cải bẹ, mỗi thứ 10g, tán bột, uống hàng ngày với nước sắc lá táo chua và dây tơ hồng sao, làm thang.
Chữa mụn cóc: dùng lá tía tô tươi vò xát vào, ngày 4 - 5 lần, xát liên tục mụn sẽ khô hết ngứa rồi bị rụng.
Trị chứng dương vật bị lở: nếu trẻ nhỏ bị chứng lở dương vật nước mủ chảy ra thì phải lập tức lấy 1 nắm lá tía tô rửa bằng nước muối rồi giã nát đắp rịt vào chỗ đau, rất hiệu nghiệm.
Trị chứng đầy bụng bí tiểu: nếu như bị chứng tiểu tiện không thông, bụng dưới đầy trướng thì lấy khoảng 2kg cả cây (cành, lá, hoa, hạt) cho vào nấu sôi, xông vào phần bụng dưới thấy nguội thì đổ thêm nước sôi, sau đó dùng vải bọc muối rang nóng chườm vào những chỗ trướng cứng và rốn thì sẽ thông tiểu ngay, đầy trướng cũng xẹp dần xuống.
Trị chứng táo bón: người cao tuổi và người suy yếu mà bị chứng táo bón thì lấy hạt tía tô và hạt hẹ, mỗi thứ khoảng 15g, cho cả hai thứ vào giã nhỏ, chế thêm vào 1 bát nước, khuấy đều lên rồi chắt lọc lấy nước cốt nấu cháo ăn rất công hiệu.
Người bị hen suyễn do bị yếu phổi (chủ yếu thấy ở người cao tuổi) thì lấy khoảng 50g hạt tía tô, sao qua, tán thành bột mịn rồi đổ nước vào gạn lấy nước cốt (1 bát nước) đem nấu cháo với gạo tẻ, ăn vào lúc đói rất công hiệu.
Lưu ý: không ăn cá chép chung với tía tô, dễ bị sinh độc thành mụn nhọt.
Xông: lấy lá tía tô cùng các lá khác như chanh, cúc tần, lá tre, lá bưởi… tạo thành nồi xông. Có thể sau xông lấy một bát nước uống. Khi mồ hôi ra cần dùng khăn khô lau sạch và đắp chăn mỏng nằm nghỉ một chốc bệnh cảm sẽ khỏi. Lưu ý: khi nấu nước sôi mới bắt đầu cho các lá xông vào và đậy vung kín; đối với trẻ hay người già yếu cần có người lớn ngồi bên giúp đỡ và hướng dẫn trong suốt quá trình xông để phòng tai nạn.
 BS. HOÀNG XUÂN ĐẠI

Chữa các chứng đau bằng đậu đen

Từ rất lâu, đậu đen đã rất quen thuộc với người dân Việt Nam qua các món ăn ngon, dân dã như: xôi, chè... Hơn thế, đậu đen còn có nhiều công dụng phòng, chữa bệnh rất hiệu quả.
Đậu đen có nhiều chất bổ như: glucid 53%, protein 24%, lipid 1,7%, các vitamin A, B1, B2, PP, C; giàu acid amin: lysin, tryptophan, phenylalanin… nên được sử dụng rộng rãi trong việc chế biến các thực phẩm bồi dưỡng sức khỏe.
Chữa các chứng đau bằng đậu đen
 
Đậu đen có nhiều công dụng
Thực phẩm giàu chất xơ: trong số những loại thực phẩm giàu chất xơ thì đậu đen được xem là “ứng cử viên” đầu bảng, rất có ích cho quá trình chuyển hóa glucose ở bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường, bằng chứng sau khi ăn xong không hề xuất hiện tình trạng tăng đường huyết vì chất xơ và một số chất khác có trong đậu đen ngăn chặn lượng đường trong máu tăng đột biến sau bữa ăn.
Giàu chất chống oxy hóa: đậu đen là thực phẩm rất giàu chất chống oxy hóa, chất này có tên là isoflavone, anthocyanidin giống như có trong nho, quả mâm xôi, dâu tây… Đặc biệt, đậu càng đen, càng thẫm màu càng giàu chất oxy hóa. Chất chống oxy hóa ở đậu đen cao gấp 10 lần các loại thực phẩm khác như: cam, nho hoặc dâu.
Giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch: người ta nhận thấy những người ăn nhiều đậu đen, rau xanh, ngũ cốc là nhóm người giảm được tới 82% nguy cơ mắc bệnh tim mạch, so với nhóm người ăn ít nhóm thực phẩm nói trên. Lợi thế của đậu đen là cung cấp chất xơ, folate và magiê giúp làm giảm hormocystein, một loại acid amino hay còn gọi là sản phẩm trung gian không có lợi cho quá trình chuyển hóa và một khi hormocystein tăng thì rủi ro mắc bệnh tim, đột quỵ là rất lớn.
Tăng cường sắt và mangan cho cơ thể: đậu đen có tác dụng rất tích cực trong việc làm tăng năng lượng và hồi phục hàm lượng sắt cho cơ thể và rất hữu ích cho nhóm người bị mất máu bởi chấn thương, hoặc cho phụ nữ giai đoạn hành kinh cũng như cho nhóm người tuổi vị thành niên đang trong giai đoạn phát triển.
Nguồn bổ sung protein cho cơ thể: không chỉ ngon miệng, dễ chế biến, đậu đen còn là nguồn thực phẩm giàu hàm lượng protein hữu ích, không có chứa hàm lượng calo quá cao hoặc các loại mỡ xấu như các loại thực phẩm gốc động vật và như trên đã đề cập, nó rất có lợi cho nhóm người ăn kiêng. Một bát nhỏ đậu đen cung cấp khoảng 15,2g protein (tương đương 30,5% nhu cầu protein và 74,8% nhu cầu chất xơ cho cơ thể mỗi ngày), với tổng lượng calo chỉ có 227g đặc biệt hoàn toàn không có chứa mỡ.
Nguồn cung cấp vitamin đa dạng cho cơ thể: vitamin A, B1, B2, C, PP…
Một số bài thuốc chữa bệnh bằng đậu đen
Chữa đau bụng dữ dội, chưa rõ nguyên nhân: đậu đen 100g, sao cháy, sắc lấy nước đặc cho thêm rượu, uống nóng 1 lần. Cơn đau giảm nhanh, nhưng cũng cần đưa bệnh nhân đi khám ngay lập tức ở bệnh viện để có chẩn đoán và xử lý kịp thời.
Chữa lưng đau ê ẩm, cứng đờ, cử động khó: đậu đen: 300g sao vàng, 300g nấu chín nhừ, 300g cho vào chõ đồ chín. Trộn đều ba loại trên cho vào 2 lít rượu chưng cách thủy 30 phút, sau đó ngâm tiếp 7 ngày, mỗi ngày uống 1 chén nhỏ vào bữa ăn (tổng lượng 100ml/ ngày). Ngoài ra có thể dùng rượu cho thêm ít gừng tươi xào nóng, xoa bóp lưng rất hiệu nghiệm.
Chữa đái rắt, đái buốt, tiểu ít: đậu đen 15g, hạt sen 15g, rau má, hạt mã đề vừa đủ, tất cả đem sắc đặc uống thay nước chè. Uống 5 - 7 ngày.
Chữa đau nhức ở các khớp xương hoặc ngộ độc rượu lâu ngày: lấy một quả dừa xiêm, vạt đầu, rồi bỏ 20g đậu đen đã rửa sạch vào quả dừa, đậy nắp dừa lại sau đó đem chưng cách thủy khoảng 3 - 4 giờ cho đậu nhừ rồi đem ra uống nước, ăn cái, mỗi tuần chỉ cần ăn 1 lần hoặc ăn 1 - 2 lần trong tháng.
Cháo thanh nhiệt giải độc dùng trong mùa nóng: đậu đen 50g, lá sen 1 lá, gạo tẻ 50g. Cách chế biến: lá sen lấy loại lá bánh tẻ, loại bỏ tạp chất thái nhỏ đem sắc 15 - 20 phút, lọc lấy nước bỏ bã. Gạo tẻ và đậu đen loại tỏ tạp chất, vo qua, cho vào nồi rồi cho nước sắc lá sen vào thêm nước cho đủ, đem ninh nhừ thành cháo. Nêm gia vị vừa đủ bắc ra ăn nguội trong ngày. Có thể ăn thường xuyên trong mùa hè. Công dụng là thanh nhiệt, giải độc, an thần, hạ áp, bổ ngũ tạng, bù tân dịch. Thích hợp cho tất cả mọi lứa tuổi, nhất là với người phải làm việc trong môi trường nắng nóng, người háo khát, người can thận âm hư gồm: tăng huyết áp, phụ nữ tiền mãn kinh, rôm sảy, ban ngứa, suy nhược cơ thể…
Cần lưu ý là đậu đen chỉ có tác dụng khi nấu chín, không nên ăn nhai sống hoặc nuốt nguyên hạt vì không có lợi cho đường tiêu hóa thậm chí gây tắc ruột…
 BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons