Cây gai có vị ngọt đắng, tính
mát, đi vào hai kinh tâm, thận; thường dùng để trị các bệnh đường tiểu như: bí
tiểu, tiểu đục, tiểu ra máu, còn dùng để cầm máu và trị động thai.
Cây gai còn gọi là trữ ma,
tầm ma, tầm gai, cây gai bánh. Tên khoa học Boehmeria nivea (L) Gaud, (Urtica
nivea L), họ Gai.
Đây là cây mà dân gian vẫn
dùng lá làm bánh gai ăn và sợi để dệt làm lưới đánh cá. Cây này thường mọc
hoang. Có thể trồng bằng gốc hay giâm cành vào mùa xuân. Cây sống lâu năm, có
thể cao tới 1,5 - 2m. Lá lớn, mọc so le, hình tim, dài 7 - 15cm, rộng 4 - 8cm,
mép có răng cưa, đáy lá hình tim hay hơi tròn, mặt dưới trắng vì có nhiều lông
trắng, mặt trên có màu lục sẫm, ráp, có 3 gân từ cuống phát ra.
Lá và rễ cây này đều dùng làm
thuốc.
Lá bánh gai thu hái vào mùa
hè, phơi khô, tán bột để làm bánh. Thân cây có sợi dừng để dệt bao bố.
Rễ được gọi là trữ ma căn,
hái vào bất cứ mùa nào, nhưng tốt nhất là vào thu đông. Hái về rửa sạch đất
phơi hay sấy khô. Rễ có vị đắng, tính hơi hàn, quy kinh tâm, thận. Tác dụng
thanh nhiệt giải độc, tán ứ, thông lâm, an thai. Dùng trong các trường hợp đơn
độc, sang lở, đái buốt, đái rắt, phụ nữ có thai đau bụng, ra huyết, xích bạch
đới, viêm cổ tử cung. Liều dùng 10 - 20g.
|
Trong 100g cây gai có chứa:
nước, protein 85,3g, chất béo 0,5g,
carbohydrates 5,4g, chất xơ 3,1g, tro
2g, vitamin A (beta caroten) 1,15mg, B1 (thiamine) 0,2mg, 0,39mg vitamin B5,
0,3mg pyridoxine, 0,1mg folic acid, 30mcg vitamin C, 333mg vitamin E, 0,8mg
vitamin K, 498,6mcg biotin, 0,5mcg choline, 17,4mg kali, 334mg canxi, 481mg
magiê, 57mg sodium, 80mg photpho, 71mg chlorine, 150mg sắt, 1,64mg mangan,
779mg đồng, 76mcg selenium, 0,3mg kẽm…
Cầm máu: trong dân gian, khi
muốn cầm máu vết thương, người ta rửa sạch lá, giã nát, đắp vào, thấy có tác
dụng cầm máu tốt. Trong y lý của Đông y, máu màu đỏ thuộc hỏa, lá gai khi giã
nát có màu đen - tương ứng với hành thủy. Trong ngũ hành, thủy khắc hỏa cho nên
lá gai có thể cầm được máu. Theo dược lý hiện đại, lá gai có chlorogenic acid,
flavonoid rhoifolin, apogenin. Chlorogenic acid thủy phân cho acid cefeitannic
và quinic; do đó lá bánh gai có tính cầm máu.
Chống oxy hóa: chlorogenic
acid có tính chống oxy hóa mạnh gấp 10 lần vitamin E. Nó phong tỏa nhóm “tự
do”, ngăn chặn sự oxy hóa lipoprotein LDL, là khởi điểm của xơ động mạch để dẫn
tới cao huyết áp và nhồi máu cơ tim. Cũng như vitamin E, nên dùng chlorogenic
acid (lá gai) trước khi LDL bị oxy hóa. Lá gai có các flavonoid khác như
rhoifolin và apigenin. Các flavonoid này có tính chống oxy hóa yếu.
An thai: rễ cây gai mới hái
hoặc phơi khô 30g sắc với 600ml nước, cô làm 200ml, chia làm 3 lần uống trong
ngày. Chỉ 1 - 2 ngày là có kết quả, không nên kéo dài.
Lợi tiểu: rễ và lá trung bình
10 - 30g sắc với nước uống.
Theo sách Nam dược thần
hiệu (Tuệ Tĩnh): kết hợp rễ gai, hoa mã đề và hành; sắc nước uống trị tiểu
buốt, tiểu rắt, sạn thận.
Tư âm thanh nhiệt, dưỡng
huyết an thai: trữ ma căn 30g (nếu tươi dùng 60 - 90g), sinh địa 30g, gạo nếp
100 - 150g; sắc sinh địa và trữ ma căn lấy nước cốt rồi ninh với gạo nếp thành
cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Dưỡng huyết an thai: trữ ma
căn tươi 50g, hồng táo 10 quả, gạo nếp 100g; sắc trữ ma căn lấy nước nấu với
gạo và hồng táo thành cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Trị động thai: rễ gai mới lấy
hoặc đã phơi khô 30g, sắc với 600ml nước, còn 200ml, chia 2 lần uống trong
ngày. Uống 1 - 2 ngày sẽ đỡ.
Trị phụ nữ có thai ra huyết
dọa sảy, có thai bị đau bụng: rễ gai tươi 4 phần, tía tô 1 phần, lá ngải cứu 1
phần (mỗi phần 12g), sắc với nước uống trong ngày.
Trị có thai bị đau bụng, động
thai: rễ gai 2 phần, cành tía tô 2 phần (mỗi phần 4g), băm nhỏ, phơi khô sắc
với 400ml nước, cỡ còn 100ml uống hết 1 lần trong ngày. Nếu có rỉ máu thì cho
thêm 10g lá huyết dụ.
Trị sa tử cung: rễ gai khô
30g sắc với 600ml nước, uống nhiều lần trong ngày. Uống liền 3 - 4 ngày.
Trị đại, tiểu tiện ra máu:
lấy 15 - 20g lá gai sắc nước uống trong ngày.
Trị tiểu nước trắng đục như
nước vo gạo: rễ gai 30g, rau dừa nước và thổ phục linh (mỗi thứ 20g), đinh
lăng, trinh nữ và thương nhĩ tử (mỗi thứ 16g). Nấu với 1.000ml nước, cô lại còn
1/4 (250ml), chia 2 lần uống trong ngày.
Trị phong thấp đau nhức các khớp:
rễ cây tầm gai (trữ ma căn), 50g, ngâm với 1 lít rượu 1 tuần. Sau đó, mỗi ngày
uống 2 lần, mỗi lần 10ml.
Trị tay chân tê mỏi: rễ cây
gai 15 - 20g, sắc uống.
Làm mụn nhọt bớt mưng mủ,
giảm sưng đau: rễ gai và rễ vông vang (2 thứ bằng nhau) giã nát đắp lên mụn
nhọt. Đắp 1 - 2 ngày.
Cầm máu vết thương: lá gai
tươi rửa sạch, giã nát đắp vào vết thương, băng lại.
Ngăn ngừa rụng tóc: chiết
xuất từ rễ có nhiều chất sắt, được dùng để ngăn ngừa rụng tóc.
Chú ý:
Cây gai có thể được coi là
một loại rau, vì nó có nhiều vitamin (A, C, B2, B5, B9 và K, kẽm và đồng) cùng
nhiều khoáng chất…
Khi được luộc chín, cây gai
không còn gây ngứa nữa (gai đã mềm, không còn acid) và nước rau khá ngon (mùi
hơi giống canh rau dền).
Bánh gai để lâu được là nhờ
chlorogenic có tính chống nấm và vi khuẩn. Thị trường có bánh gai giả (nhuộm
nâu) chỉ để vài ngày là mốc do không có lá gai (thiếu chlorogenic).
Không phải bệnh thực nhiệt
không dùng.
Lương y HOÀNG DUY TÂN
0 nhận xét:
Đăng nhận xét